CHƯƠNG VI: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
VI.2. Định hướng triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020
VI.2.1. Định hướng, triển vọng tổng thể
VI.2.1.1. Định hướng, triển vọng đổi mới cơ chế, cơ cấu kinh tế
Hệ thống cơ chế, chính sách phát triển kinh tế đang hướng tới xây dựng thành công nền kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời, hình thành đồng bộ các loại thị trường và hệ thống thể chế nền kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm Việt Nam và phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Việc hoàn thiện hệ thống khung khổ pháp luật gắn liền với xây dựng thành công nhà nước pháp quyền có hiệu lực và hiệu quả cao. Đây là công việc rất khó nhưng Việt Nam đang quyết tâm triển khai thực hiện. Thực tế đã cho thấy, một quốc gia không thể có nền kinh tế mạnh khi chỉ có nhà nước yếu. Vấn đề “tam quyền” đối với Nhà nước phải được phân định rõ ràng. Chức năng của cơ quan lập pháp và của cơ quan hành pháp không thể chồng chéo, phải được xác định đúng đắn và thực thi có hiệu quả. Có lẽ không thể để kéo dài tình trạng cơ quan hành pháp thực hiện công việc của cơ quan lập pháp; cơ quan lập pháp không thể “nhờ” cơ quan hành pháp xây dựng pháp luật.
Đến năm 2020, cơ cấu kinh tế Việt Nam được chuyển dịch dựa trên các trụ cột là: Các ngành công nghiệp cơ bản (nổi bật như công nghiệp năng lượng, luyệ cán thép và một số lĩnh vực cơ khí chế tạo, điện tử-tin học, hoá chất cơ bản, vật liệu xây dựng...); các ngành dịch vụ chủ yếu và chất lượng cao (như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo, vận tải, thông tin, khoa học công nghệ...). Đối với Việt Nam các ngành dịch vụ còn nhiều tiềm năng để phát triển, bao quát một phạm vi rộng lớn từ thành thị tới nông thôn, từ đất liền tới biển, đảo. Việt Nam đang đứng trước thời điểm mở cửa theo lộ trình cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế với ASEAN, APEC và WTO; Nền nông nghiệp được phát triển theo hướng môi trường - sinh thái, gắn với du lịch, trong đó lâm nghiệp có những đột phá để có mức đóng góp xứng đáng cho sự phát triển cao, ổn định, vững chắc về kinh tế - xã hội ở một quốc gia mà 2/3 diện tích tự nhiên là đồi núi và rừng cây.
VI.2.1.2. Định hướng, triển vọng về sử dụng nguồn lực
Sau nhiều thập kỷ phát triển kinh tế dựa vào khai thác và xuất khẩu (dạng thô) tài nguyên thiên nhiên, từ nhiều năm qua, Việt Nam đã tự thấy không thể tiếp tục theo hướng này. Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 và Kế hoạch 5 năm 2011-2015 đang được hoạch định với nhiều giải pháp tạo những bước chuyển biến tích cực theo hướng khai thác tổng hợp và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Theo sự điều chỉnh này, đến năm 2020: Tài nguyên năng lượng được khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả hơn, trong đó năng lượng mặt trời, gió, sinh học, hạt nhân được chú trọng thay thế các loại năng lượng hóa thạch; Tài nguyên đất tránh được nhiều sử dụng lãng phí, trong đó: các khu đô thị mới, các trung tâm kinh tế mới, các khu dân cư nông thôn mới được xây dựng và phát triển không còn tràn lan trên mặt đất mà chú trọng khai thác cả trên tầng cao và dưới tầng ngầm; Tài nguyên nước được chú trọng bảo
vệ, trong đó nhiều dòng sông bị ô nhiễm những năm qua được xử lý, khôi phục trạng thái tự nhiên của chúng; Tài nguyên rừng được khôi phục độ che phủ bằng mức đã có trước năm 1945, tạo nền tảng cho sự bảo đảm an toàn và phát triển nguồn nước và khí hậu quốc gia.
Việt Nam được quốc tế đánh giá là quốc gia có lợi thế về nguồn nhân lực giá rẻ. Lợi thế này đang tạo ra tác động trái chiều: một mặt giúp thu hút được nhiều dòng vốn đầu tư nước ngoài, mặt khác duy trì Việt Nam trên quĩ đạo phát triển hiệu quả thấp và kém bền vững. Nhận thức được điều này, từ nhiều năm qua, Việt Nam đã đề xướng phát triển nền “kinh tế tri thức” với trụ cột là nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo hướng này, Việt Nam đang tập trung thực hiện cải cách giáo dục, tạo đột phá trong đào tạo cả về bề rộng và chiều sâu. Đến năm 2020, Việt Nam một mặt vẫn là một quốc gia có số người đạt trình độ giáo dục phổ thông với tỷ lệ cao trên thế giới, mặt khác chỉ số lao động được đào tạo trong xã hội sẽ tăng gấp 2 hoặc 3 lần so với hiện nay (chỉ số này năm 2008 là 23% tổng lao động xã hội).
Việt Nam quyết tâm tự tổ chức nghiên cứu và khuyến khích việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, trong đó xây dựng tiềm lực khoa học tương đối mạnh; gắn sản xuất với nghiên cứu khoa học công nghệ và hình thành tâm lý xã hội coi khoa học công nghệ là nền tảng của sự phát triển; phấn đấu để Việt Nam có nhiều nhà khoa học, nhà công nghệ giỏi ngang tầm quốc tế; tích cực hơn đối với việc phát triển các khu công nghệ cao, các khu sinh dưỡng công nghiệp và các khu nông nghiệp công nghệ cao. Việc nghiên cứu và triển khai phải được toàn xã hội quan tâm hơn nữa và phải có được động lực để nó trở thành hiện thực đồng hành với quá trình phát triển Việt Nam.
Kinh tế, xã hội, môi trường là ba trụ cột cơ bản của phát triển bền vững theo tinh thần các mục tiêu thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết với thế giới.
Nguyên tắc cơ bản của sự phát triển là bảo đảm phát triển hài hoà giữa kinh tế với xã hội và thân thiện với môi trường. Hình thành tâm lý tăng trưởng kinh tế nhanh gắn với xây dựng xã hội tiến bộ, bền vững và có được môi trường sinh thái tốt. Phát triển đô thị gắn liền với xây dựng nông thôn mới, xây dựng cộng đồng dân cư luôn luôn vì sự phát triển bền vững.
VI.2.1.3. Định hướng, triển vọng về mặt mục tiêu
Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010, Việt Nam đã xác định mục tiêu tổng quát là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Trong chặng đường từ 2010 đến 2020, Việt Nam hội đủ nhiều điều kiện mang tính tiền đề về kết cấu hạ tầng, khung thể chế, nguồn nhân lực, năng lực nội sinh, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH), thực hiện thành công mục tiêu cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại theo một số nội dung: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Cơ cấu kinh tế được nâng cấp và
chuyển dịch đạt hiệu quả và phát triển bền vững hơn; Hình thành hoàn chỉnh thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tương hợp với trình độ quốc tế. Mở rộng hội nhập quốc tế ở mức độ sâu hơn trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, tiền tệ, lao động, công nghệ, thông tin. Về kinh tế, có vị thế của một nước có trình độ phát triển trung bình trên thế giới; Chất lượng nguồn nhân lực tiếp tục được phát triển và nâng cao theo kịp trình độ quốc tế. Chỉ số HDI đạt mức trên trung bình trên thế giới; tạo dựng và phát huy được năng lực công nghệ nội sinh, kể cả các lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, chế tạo máy, tự động hóa, hóa dầu, năng lượng,… và sự kết hợp các công nghệ đó; có chỗ đứng vững chắc trên thị trường công nghệ, đạt trình độ tiên tiến về công nghệ trong khu vực; lối sống và đạo đức của một xã hội lành mạnh, văn minh, hiện đại, gắn kết cá nhân với cộng đồng và dân tộc được hình thành; nền dân chủ được mở rộng, mọi người dân có điều kiện tiếp cận và hưởng thụ công bằng các thành quả phát triển; đến năm 2020, khi cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Việt Nam đạt được một số chỉ tiêu chủ yếu.
Tựu trung lại, sau khi kết thúc chặng đường CNH-HĐH đến năm 2020, Việt Nam đạt trình độ cơ bản là một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Những năm sau đó, Việt Nam tiếp tục phát triển trên con đường hiện đại hóa trong bối cảnh của thế giới đương đại, theo đó, mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” dần dần trở thành hiện thực.
VI.2.1.4. Định hướng, triển vọng về phát triển ngành, lĩnh vực
Các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất bao gồm những ngành phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên và công nghệ nước ngoài như nông-lâm sản, thuỷ-hải sản, may mặc, da giầy…được lựa chọn phát triển nhiều trong những năm đầu của thời kỳ CNH-HĐH. Các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai, bao gồm những ngành đòi hỏi công nghệ cao hơn như công nghiệp nhiệt điện và thủy điện, công nghiệp dệt, cơ khí chế tạo, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp, điện tử, công nghệ thông tin, tự động hoá... được chú trọng bắt đầu xây dựng và phát triển vào khoảng trung kỳ của niên hạn 2001-2020. Các ngành công nghiệp thế hệ thứ ba, bao gồm những ngành sản xuất đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao như công nghiệp điện hạt nhân, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp hoá chất quy mô lớn, công nghiệp luyện kim, công nghiệp chế tạo các phương tiện giao thông vận tải hiện đại…được chú trọng xây dựng và phát triển vào cuối giai đoạn 2010- 2020. Sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp này có tính chất thay thế nhập khẩu cao nên quá trình phát triển đã được cân nhắc cẩn trọng, và nhìn chung cần một khoảng thời gian tương đối dài để hội đủ điều kiện cho sự phát triển có hiệu quả, nhất là về nguồn vốn và công nghệ.
Thời gian qua, trong những chủ trương lớn của mình, Việt Nam luôn khẳng định và đặt CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH-HĐH. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá IX về “Đẩy nhanh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010” (ngày 18/3/2002) đã đề ra chủ trương toàn diện về vấn đề này. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”
(ngày 05/8/2008) đã đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, xây dựng nông thôn mới, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn trong những năm tới, và cụ thể cho thời kỳ từ nay đến năm 2020. Theo mục tiêu đến năm 2020 khi Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp, tỷ trọng dịch vụ trong GDP chiếm từ 45-50%, tức là tăng hơn 5% so với hiện nay.