A- GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP”
II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TÁC PHẨM
1. Lên án tội ác của chế độ thực dân Pháp và vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa đế quốc
Đúng với tên gọi, tác phẩm là bản cáo trạng đanh thép vạch tội ác của thực dân Pháp ở các thuộc địa của chúng với nhiều chứng cớ.
Thực dân Pháp nấp sau chiêu bài “Bình đẳng, Bác ái”, “khai hóa” để vũ trang xâm lược, đàn áp đẫm máu các phong trào yêu nước, biến các dân tộc thành nô lệ. Mọi hoạt động kinh tế, tài chính quan trọng nhất ở các nước thuộc địa đều nằm trong tay tư bản chính quốc là đặc trưng thống trị của thực dân Pháp. Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất của nông dân thuộc địa, lập nên các đồn điền để kinh doanh kiếm lời. Hậu quả là làm cho nông dân mất ruộng đất phải làm công trong các đồn điền, hầm mỏ, xí nghiệp của thực dân.
Nông dân chịu gánh nặng của những thứ thuế vô lý gấp trăm lần thuế đất thời phong kiến. Đặc biệt là thuế thân, khi hỏi phải trình, ai quên hoặc đánh mất sẽ bị bỏ tù. Người dân phải nhổ thuốc, chặt cau để tránh những phiền nhiễu vì thuế mới. Nạn đói trở thành một căn bệnh kinh niên đối với xứ thuộc địa. Nông dân là tầng lớp bị áp bức nặng nề nhất. Thuế má, sưu dịch....đủ thứ ngày một chất đầy lên số phận họ. Họ phải sống cùng khổ, chết đói, bị cướp giật từ mọi phía, bằng mọi cách, bởi nhà nước thực dân, phong kiến tân thời, bởi giáo hội Thiên Chúa. Chính sách ăn cướp của thực dân Pháp ví như con bạch tuộc đang xiết nhiều cái vòi hút độc quyền muối, độc quyền rượu, thuốc phiện…, hàng chục thứ thuế bất công, kể cả thuế máu. Bảy chục vạn người bản xứ đặt chân lên đất Pháp, tám vạn người chết để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế. Trước năm 1914, Pháp coi
nông dân chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay, ăn đòn của các quan cai trị; thế mà cuộc chiến tranh vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu” những người “bạn hiền” của các quan cai trị. Đùng một cái, họ được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do”, đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, vượt đại dương, phơi thây trên chiến trường châu Âu.
Nạn dịch tễ cũng phát sinh ở nhiều nơi và có nguy cơ lan rộng. Tiền lương công nhân tăng chưa đầy 30% nhưng giá sinh hoạt thì lại tăng lên ít nhất 300%.
Mỗi năm Pháp phát hành “Công trái chiến thắng” để thu lợi nhuận. Trong chiến tranh, nhiều lính Phi gửi ngân phiếu về cho gia đình nhưng tiền không bao giờ đến tay người nhận. Có khi cả một ngành từ trên xuống dưới đều nhiễm căn bệnh ăn cắp như vậy trong mấy năm ròng mà vẫn bình yên vô sự. Chưa có bao giờ, ở một nước nào mà thực dân Pháp lại vi phạm mọi quyền làm người một cách dã man, độc ác trắng trợn đến thế. Pháp đè nặng ách bóc lột lên số phận tất cả mọi tầng lớp nhân dân, kể cả người lính và sĩ quan bản xứ cấp thấp trong quân đội Pháp.
Dân lao khổ Đông Dương từ năm 1915- 1916 còn phải thêm cái vạ mộ lính.
Thực dân Pháp cho quan lại lấy dây chăng ngang hai đầu con đường chính trong làng, lùa tất cả những người da đen phải tòng quân. Các quan tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, người nào cứng cổ thì chúng tìm cách sinh chuyện hoặc phải xì tiền ra. Người bị bắt lính, xích tay điệu về tỉnh lỵ, tốp thì trước khi xuống tàu bị nhốt trong một trường học, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn; nhốt vào các trang trại lính với đủ thứ tên: khố đỏ, lính thợ...
Những người sống sót trở về đã được quan cai trị ghi ơn bằng một bài “diễn văn” chào mừng: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!”. Chính quyền coi rẻ tính mạng và xương máu của những người bị chúng lừa bịp, “giáo dục” bằng đá đít hoặc roi vọt.
Pháp bắt dân đi phu, làm tạp dịch những công việc nặng nhọc trong khi điều kiện cơm ăn không đủ no, uống thứ nước bẩn, bệnh hoạn gây nên chết chóc khủng khiếp... Họ coi người An Nam như những súc vật phải điều khiển bằng roi vọt. Họ quen tự coi mình thuộc một đẳng cấp quý tộc mới, có đặc quyền đặc lợi.
Văn minh “Đại Pháp” là đầu độc người bản xứ bằng thuốc phiện và rượu cồn để thu lợi nhuận và làm cho nòi giống ta suy nhược, tiêu mòn dần. Cứ 1.000 làng thì có đến 1.500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Pháp cưỡng bức người dân bản xứ mua rượu cất bằng gạo rẻ tiền, pha thêm chất hóa học có nồng độ 40-500, mùi vị nồng nặc khó chịu. Cứ mỗi hectôlit rượu pha thêm 8 lít nước lã để hàng năm lãi thêm một món 432.000 đồng hay 4 triệu phrăng thì thật ti tiện và bỉ ổi hết chỗ nói.
Đông Dương như một con nai béo mập bị trói chặt và đương hấp hối dưới những cái mỏ quặp của một bầy diều hâu rỉa rói mãi mà không no.
Nguyễn Ái Quốc dành một chương của tác phẩm để tố cáo thực dân đã gây nên bao nỗi khổ nhục cho người phụ nữ bản xứ. Người chỉ rõ không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài phố, trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, ở đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của bọn quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên Pháp. Họ bị xúc phạm phong hóa, trinh tiết và đời sống. Pháp đầy đọa chị em lao động đến tột độ: hà hiếp, giết, thiêu, vứt thây nạn nhân ra đồng... Người ta thường nói: chế độ thực dân là ăn cướp”, tác giả xin thêm là hiếp dâm và giết người.” Thói dâm bạo vô độ của bọn xâm lược không có giới hạn nào cả.
Để đánh lừa dư luận Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm thấm, thực dân Pháp thi hành một chính sách văn hoá ngu dân triệt để. Chúng hạn chế đến mức tối đa mở trường học mặc dù trường học. Trong 1000 làng chỉ có vẻn vẹn 10 làng có trường học. Vào kì khai giảng, nhiều phụ huynh phải đi gõ cửa, chạy chọt mọi nơi, chịu trả gấp đôi tiền nội trú, nhưng vẫn không tìm được chỗ cho con học và hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường. Chính phủ thuộc địa lại tìm đủ mọi cách để ngăn cản không cho thanh niên An Nam sang du học bên Pháp, vì sợ nhiễm phải chủ nghĩa cộng sản.
Người dân Việt Nam bị tước bỏ mọi quyền lợi học tập, tự do đi lại, tự do báo chí, thư tín ... Sắc lệnh năm 1898 của thực dân Pháp quy định báo chí bản xứ phải chịu kiểm duyệt trước khi in. Quyền sơ đẳng là viết thư cho nhau thì cũng không được hưởng. Thực dân Pháp xây dựng chùa, nhà thờ để móc túi người dân bản xứ, sau đó đẩy họ vào vòng mê tín dị đoan. Giáo hội nhân danh Chúa, lợi dụng mình là những sứ đồ của giáo hoàng để cướp bóc tập thể, chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân, đánh đập ngay cả em bé... Chúa đầy lòng nhân ái và toàn năng, là đấng sáng thế tối cao, Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy các môn đồ của mình như vậy. Các đoàn truyền giáo đã lợi dụng lòng hiếu khách của người An Nam để đánh cắp bí mật quân sự, vẽ những bản đồ nộp cho quân đội viễn chinh. Họ ủng hộ thực dân Pháp đốt làng vì đã không nộp thuế cho chúng.
Trong nhiều chương, tác giả tố cáo, phê phán cụ thể những kẻ trực tiếp gây tội ác là tất cả bọn toàn quyền, thống đốc, khâm sứ, công sứ... cho đến bọn đội lốt tôn giáo trong các giáo hội và bọn tay sai mạt hạng, lũ phản động vô liêm sỉ, bóc lột tàn ác, những kẻ luôn “rạp mình sát đất” tâng bốc bọn quan thầy thực dân cướp nước, cướp của, giết người. Tác phẩm nêu rõ, trừ vài trường hợp hiếm hoi còn quan Pháp toàn là những bọn bất tài, cặn bã của xã hội Pháp, độc tài, hung ác, tham
nhũng... Tên công sứ Đáclơ, chúa tỉnh Thái Nguyên vốn là một anh hàng cháo, mắc nợ như chúa chổm ở Pháp nhưng nhờ một thế lực đã làm quan cai trị ở thuộc địa.
Pháp luôn ca ngợi lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái nhưng sự thật là phân biệt người da trắng và người da màu. Điều thật phi lý và bất công là khi ở thuộc địa, cứ có màu da trắng là quý phái, là thuộc chủng tộc thượng đẳng. “Khi người ta có màu da trắng thì nghiễm nhiên người ta là một nhà khai hóa.” Cùng làm một việc trong một xưởng, người thợ da trắng được trả lương cao hơn nhiều so với bạn đồng nghiệp khác màu da. Trong các công sở, những người bản xứ dù đã làm việc lâu năm và dù rất thành thạo công việc, cũng chỉ được lĩnh một khoản tiền lương chết đói; trái lại một người da trắng mới được đưa vào, làm việc ít hơn, lại lĩnh lương cao hơn. Cùng một cấp bậc nhưng người da trắng luôn được coi là cấp trên của người bản xứ. Một cựu nghị sĩ Pháp đi thăm thuộc địa về đã phải kêu lên: “So với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cướp đường còn là những người lương thiện”
Các quan cai trị Pháp ở Đông Dương đều coi mình là những ông vua con.
Họ muốn xung quanh mình cái gì cũng xa hoa tráng lệ và nói rằng, có thế mới nâng cao được uy tín của họ đối với người bản xứ. Tất cả bọn chúng chỉ có mỗi cái tài phung phí công quỹ, còn người An Nam khốn khổ cứ nai lưng đóng góp mãi.
Nguyễn ái Quốc châm biếm: Công lý ở Đông Dương được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường từ Pháp tới Đông Dương xa quá, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc những chai rượu ty, nên người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả người vô tội, và nhất là người vô tội. Ở Đông Dương, dù người Pháp bắn vỡ sọ một người Trung Kì bằng súng lục, nhốt một người Bắc Kì vào cũi chó, sau khi đánh đập tàn nhẫn rồi đem giết, xô người gác cầu bản xứ vào đống than hồng cho chết... cũng không bị trừng trị.