Sự thành lập, mục tiêu và hình thức tổ chức hoạt động

Một phần của tài liệu BÀI GIẢNG sự RA đời của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM (Trang 132 - 136)

B. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM "ĐƯỜNG KÁCH MỆNH"

I. HỘI VIỆT NAM CÁCH MẠNG THANH NIÊN

1. Sự thành lập, mục tiêu và hình thức tổ chức hoạt động

Từ năm 1923, một số chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi Việt Nam đang hoạt động ở Quảng Châu (tô giới của Pháp tại Trung Quốc) đã lập ra nhóm Tâm Tâm Xã với chủ trương thức tỉnh, lôi cuốn đồng bào đứng lên đánh đuổi giặc Pháp bằng các hoạt động cụ thể, thậm chí trừng trị những tên thực dân đầu sỏ. Tháng 6-1924, Mðclanh, toàn quyền Đông Dương sang Quảng Châu để câu kết với chính quyền sở tại đàn áp những người yêu nước Việt Nam ở đây. Phạm Hồng Thái, một chiến sĩ của Tâm Tâm Xã được giao nhiệm vụ đóng giả phóng viên nhiếp ảnh, ném lựu đạn vào bàn tiệc chiêu đãi. Méc lanh thoát chết nhưng lựu đạn đã làm chết 4 tên Pháp và hai tên bị thương nặng. Bị rượt đuổi, Anh nhảy xuống sông Châu Giang và hy sinh. Việc mưu sát không thành nhưng nó đã gây tiếng vang lớn “ báo hiệu thời đại đấu tranh dân tộc như chim én báo hiệu mùa xuân”, thức tỉnh và thu hút nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam tìm đường đến đây hoạt động.

Ngày 11- 11-1924, với cương vị là Uỷ viên Bộ Phương Đông, phụ trách cục Phương Nam của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đến Quảng Châu.

Người ở nhà văn phòng của Trương Thái Lôi, người quen của Nguyễn Ái Quốc hồi ở Mátxcơva. Đầu năm 1925, Người bắt liên lạc với những thanh niên Việt Nam yêu nước, giàu nhiệt huyết, có chí khí cách mạng trong tổ chức Tâm tâm xã. Qua tổ chức này Người gặp được Phan Bội Châu tại nhà ông Hồ Ngọc Lãm, cùng bàn chuyện cứu nước. Sau khi tiếp xúc với Phan Bội Châu và nắm trong tay bản danh sách gồm 14 đồng chí thân cận của Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc mở ngay một lớp huấn luyện về phương pháp tổ chức cách mạng. Sau lớp huấn luyện đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn những thanh niên tích cực, được thử thách qua huấn luyện và công tác lập ra một nhóm bí mật, tức là Cộng sản đoàn (2-1925)gồm 9 hội viên 51. Một số người được cử về nước để bắt liên lạc với các tổ chức cách mạng.

Mầm mống đầu tiên của một tổ chức cách mạng mới đã hình thành.

Trong báo cáo gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản đề ngày 19-2-1925, Nguyễn ái Quốc đã viết trong phần: Công tác đã làm được như sau: “ Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật gồm chín hội viên, trong đó có: 2 người đã được phái về nước, 3 người ở tiền tuyến (trong quân đội của Tôn Dật Tiên),1 người đang đi công cán quân sự (cho Quốc dân Đảng). Trong số hội viên đó, có 5 người đã là đảng

51gồm các đồng chí: Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lưu Quốc Long (Quý), Trương Văn Lãnh, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ.

viên dự bị của Đảng Cộng sản. Nhóm Cộng sản đoàn đóng vai trò hạt nhân của một tổ chức rộng hơn sau này. Nhóm này được phát triển trong suốt thời gian Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo. Sau này, tháng 4-1927, trong lớp huấn luyện thanh niên từ trong nước sang, sau khi học xong đã kết nạp tất cả vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhưng chỉ chọn 5 người vững vàng nhất kết nạp vào Cộng sản đoàn là các đồng chí Trần Phú, Nguyễn Văn Lợi, Phan Trọng Bình, Phan Trọng Quảng, Nguyễn Ngọc Ba 52.

Như vậy vào tháng 12-1924, tại Quảng Châu, trung tâm cách mạng của nhân dân Trung Quốc đã diễn ra cuộc hội ngộ lịch sử giữa Nguyễn Ái Quốc, người đang khao khát đi tìm lực lượng để truyền bá chủ nghiã Mác- Lênin và một tổ chức của những thanh niên yêu nước Việt Nam đang sẵn sàng tiếp nhận lý luận cách mạng nhất. Cuộc hội ngộ lịch sử đó đó ra đời Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Sau đây viết tắt là Hội VNCMTN).

Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra đời đã công bố ngay Chương trình Điều lệ. Mục đích của Hội là “Làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)” 53.

Điều lệ của Hội chỉ rõ: “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phụ trách tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng ở Việt Nam hết sức phấn đấu để thâu phục hết đại bộ phận thợ thuyền, dân cày và binh lính, dẫn đạo cho quần chúng lao khổ bị áp bức ấy liên hiệp với vô sản giai cấp thế giới để một mặt đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, chế độ phong kiến và chủ nghĩa tư bản mà dựng ra chính quyền độc tài của thợ thuyền, dân cày và binh lính; một mặt tham gia vào cuộc thế giới cách mạng san trừ tư bản chủ nghĩa cả thế giới đặng thực hiện chủ nghĩa cộng sản” 54.

Chính cương của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên xác định:

1. Dùng bạo lực đánh đổ quyền thống trị của đế quốc chủ nghĩa Pháp và chế độ quan liêu.

2. Lập ra chính quyền độc tài của thợ thuyền, dân cày và binh lính. Từ làng đến trung ương đều do quần chúng dân cày thợ thuyền và binh lính trực tiếp cử đại biểu ra

3. Giải tán hết quân đội của thống trị giai cấp, tổ chức quân đội cách mạng lấy trong thuần tuý công nông ra.

52 Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 71. 1965, tr 18

53 Các tổ chức tiền thân của Đảng, BNCLSĐTW, H,1997, tr. 82-83

54 Văn kiện Đảng to n tà ập, tập 1 (1924-1930), nxbCTQG, H, 2002, trang 118

4. Bỏ hết pháp luật phong kiến và đế quốc chủ nghĩa. Lập ra luật cách mạng theo ý chí của quần chúng.

5. Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của tụi đồn điền nhà chung và quý tộc, vua chúa.

6. Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên trăm (100) mẫu.

7. Đất ruộng tịch ký về phân phối cho dân cày cấy chung.

8. Quyền ruộng đất về Nhà Nước, cấm chỉ mua, bán ruộng đất.

9. Bỏ hết khế khoản nợ nần.

10. Thực hành chính sách đánh thuế luỹ tiến thật nặng.

11. Tịch ký và đem về công các cơ quan giao thông (đường sắt, xe điện, tàu thuỷ), tài chính (ngân hàng, kho bạc), công nghiệp lớn (nhà máy, xưởng thợ, mỏ), cơ quan thương mại và tuyên truyền của đế quốc chủ nghĩa.

12. Thực hành chế độ tám giờ cho thợ thuyền đàn ông và sáu giờ cho thợ thuyền đàn bà và trẻ con.

13. Định luật lao động cấm chỉ thuê đàn bà, trẻ con làm công ban đêm và các chỗ độc địa.

14. Định lệ và sắp đặt các việc bảo hiểm cho nhân dân.

15. Đàn ông, đàn bà tuyệt đối bình đẳng, bình quyền về các phương diện (pháp luật, tục lệ,v.v..).

16. Đánh đổ tất cả các đế quốc chủ nghĩa xâm lấn hoặc muốn xâm lấn An Nam. Vô điều kiện ủng hộ và liên hiệp với những nước lao nông chuyên chính (Nga).

17. Vô điều kiện ủng hộ và giúp đỡ các cuộc dân tộc cách mạng và vô sản cách mạng trong thế giới.

18. Thừa nhận các dân tộc tự do, tự quyết (Cao Miên, Lào).

19. Đánh đổ giáo dục của thống trị giai cấp, đề xướng và sắp đặt cách mạng giáo dục. Giáo dục bắt buộc, tổn phí Nhà nước chịu phụ trách.

20. Cấm chỉ tôn giáo can dự vào giáo dục.

Tuần báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận Trung ương của Hội do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Báo in bằng chữ quốc ngữ, in tay trên giấy sáp, mỗi số khoảng vài trăm bản. Ngày 21 tháng6 năm 1925, báo Thanh niên ra số đầu tiên.

Hội VNCMTN có tổ chức làm 5 cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ, Huyện bộ và Chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội giữa hai kỳ đại hội. Tổng bộ đầu tiên gồm 5 người, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn.

Trụ sở của Tổng bộ đặt tại Quảng Châu.

Hội tổ chức theo nguyên tắc tập trung. “Các cơ quan chỉ huy trong Hội (thượng cấp cơ quan cũng như hạ cấp cơ quan) phải do hội viên Đại hội hoặc đại biểu Đại hội cử ra. Các cơ quan chỉ huy phải thường báo cáo công việc làm cho người tuyển cử biết. Các hạ cấp cơ quan phải tuyệt đối phục tùng và thực hành ngay cho đúng những mệnh lệnh, kế hoạch và quyết nghị án của thượng cấp cơ quan.

Trong thời kỳ bí mật, các hạ cấp cơ quan do thượng cấp cơ quan chỉ phái, trừ hội Trung ương Chấp uỷ là phải do toàn quốc đại biểu Đại hội tuyển cử mà thôi.

Hội tổ chức lấy chi bộ sản nghiệp (chi bộ lò máy, mỏ than, xưởng thợ, đồn điền, đường xe lửa, thôn quê, trại lính, trường học,...) làm cơ sở. Chi bộ gồm tất cả những hội viên ở trong các cơ quan ấy.

Hội tổ chức có chi bộ, huyện bộ hay thành bộ, tỉnh bộ, kỳ bộ và Trung ương bộ. Trung ương chỉ huy kỳ bộ; Kỳ bộ chỉ huy tỉnh bộ; Tỉnh bộ chỉ huy huyện bộ hay là thành bộ; Hoặc huyện bộ chỉ huy chi bộ. Trong những đoàn thể của quần chúng (công hội, nông hội, cứu tế hội, phụ nữ hội, đảng phái khác,...) và trong các cơ quan chỉ huy của những đoàn thể ấy, nếu đã có hai hội viên trở lên thì phải tổ chức ngay chi bộ của Hội để truyền bá ảnh hưởng và thực hành chính sách của Hội.

Những chi bộ ấy phụ thuộc vào cơ quan chỉ huy của địa phương mình.

Những chi bộ ở trong các đoàn thể có tính chất toàn quốc (như đảng phái khác,...) thì thuộc về Trung ương chỉ huy. Cứ mỗi năm trước khi khai mạc toàn quốc đại biểu Đại hội thì đăng ký tất cả hội viên lại một lần” 55.

Điều kiện kết nạp vào Hội: là những người phục tùng tôn chỉ, thừa nhận điều lệ, chương trình của Hội, tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, kế hoạch và nghị quyết của Hội, nộp nguyệt phí và được 2 Hội viên cũ giới thiệu.

Hội viên kết nạp vào Hội phải trải qua thời kỳ dự bị. Thời kỳ dự bị căn cứ vào từng đối tượng cụ thể, Thợ thuyền, dân cày nghèo và binh lính thì phải dự bị sáu tháng; Thợ thuyền lương cao, dân cày khá và thợ thủ công phải dự bị một năm;

Trí thức tiểu tư sản,... thì phải dự bị hai năm.

Trong thời kỳ dự bị, Hội viên phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của Hội viên.

Nếu không tiến bộ, vi phạm kỷ luật của Hội thì sẽ không được trở thành Hội viên chính thức và cũng không đủ tư cách là Hội viên của Hội.

Về quyền lợi và nghĩa vụ Hội viên được quy định như sau: Hội viên được hưởng quyền lợi biểu quyết; tuyển cử, bị cử. Hội viên có nghĩa vụ phải giữ bí mật;

phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, kế hoạch của các cơ quan chỉ huy trong Hội và

55 Văn kiện Đảng to n tà ập, tập 1 (1924-1930), xnbCTQG, H, 2002, trang 108-109

nghị quyết của Hội; phải thâm nhập vào quần chúng để tuyên truyền mục đích, tôn chỉ của Hội và hướng dẫn quần chúng thực hiện. Phải xem xét, góp ý phê bình đồng chí. Thường xuyên báo cáo công việc ít nhất một tuần một lần. Đối với công việc của Hội phải thường xuyên góp ý kiến xây dựng; phải có tư tưởng cầu tiến bộ;

khi muốn thuyên chuyển đến nơi khác phải có sự đồng ý của cơ quan cấp có thẩm quyền. Đến nơi mới phải phục tùng tổ chức Hội và tiếp tục làm việc; Hội viên phải có trách nhiệm đóng góp Hội phí để hoạt động, mức Hội phí căn cứ theo mức thu nhập của từng người; những người bị bắt và thất nghiệp thì được miễn góp Hội phí.

Trong điều kiện của Hội VNCMTN, Hội quy định cơ quan tối cao các cấp phải do Đại hội bầu ra. Từ chi bộ, huyện, thành, đến tỉnh, toàn quốc tổ chức đại hội hàng năm để kiểm điểm, đề ra phương hướng công tác và kiện toàn tổ chức. Đại hội đại biểu toàn quốc mỗi năm một lần; toàn tỉnh bốn lần; toàn huyện, thành mỗi năm sáu lần, Chi bộ một tháng một lần; Phân bộ và tiểu bộ ít nhất một tuần lễ một lần.

Khi có 2/3 hội viên hoặc hạ cấp yêu cầu thì tiến hành đại hội bất thường.

Chỉ có đại hội đại biểu toàn quốc của Hội mới có quyền quyết định sửa đổi điều lệ, chương trình của Hội và bầu ra cơ quan tối cao của Hội trong toàn quốc.

Ngay từ khi mới ra đời, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cũng đề ra kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh. Hội xử tử hình đối với những người phạm một trong những điều sau: Đổi lòng biến tiết đi hàng địch; Không có mệnh lệnh và làm nguy hại cho đồng chí; Cố ý không tuân theo kế hoạch mệnh lệnh để làm xảy ra nguy hại Hội; Cố ý tiết lộ bí mật làm nguy hiểm tới Hội.

Hội sẽ xử phạt cảnh cáo, khai trừ tạm thời và khai trừ vĩnh viễn đối với những người phạm một trong 23 lỗi sau đây: Xâm phạm quyền hạn của thượng cấp;

không phục tùng mệnh lệnh và kế hoạch Hội. Không phục tùng chương trình và điều lệ của Hội. Không phục tùng nghị quyết của đa số phát biểu ngôn luận và có hành động phản đối Hội. Làm sai kế hoạch và án nghị quyết của Hội; Không tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản. Tiết lộ bí mật; Không nhiệt tâm hăng hái làm việc;

Không làm được việc gì cho Hội. Không báo cáo công việc làm; Giấu lỗi của đồng chí; Không nộp Hội phí; Làm việc nhút nhát đến nỗi hỏng công việc; Không nghe lời phê bình; Không chịu đổi lỗi. Hay châm chọc ly gián đồng chí. Không có tính đoàn thể hoá. Không có tính chất bình dân hoá mà cứ giữ tính tư sản quân phiệt;

Không chịu hy sinh ý kiến riêng và quyền lợi riêng. Lập bè phái riêng. Tự do hành động; Chưa được mệnh lệnh của Hội mà tự tiện gia nhập vào đoàn thể khác; Rượu chè, cờ bạc và mê trai gái. Xa xỉ hoang đường.

Một phần của tài liệu BÀI GIẢNG sự RA đời của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM (Trang 132 - 136)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(162 trang)
w