B. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM "ĐƯỜNG KÁCH MỆNH"
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1. Sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam
V.I. Lênin định nghĩa: “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải họ ít nhiều được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong chế độ kinh tế xã hội nhất định”.43
Trong xã hội có nhiều nhóm giai cấp khác nhau được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau về giới tính, nghề nghiệp. Sự tồn tại của các giai cấp gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất.
Trước khi thực dân Pháp hoàn thành xâm lược Việt Nam, kinh tế nước ta chủ yếu là kinh tế nông nghiệp. Từ nhà Nguyễn, Việt Nam đã phát triển nhiều làng, ấp, phố phường chuyên môn sản xuất nghề thủ công đồ gốm, dệt chiếu… với lớp thợ thủ công giỏi nghề, chất lượng sản phẩm tốt; đã có một số xưởng đúc tiền, đóng tàu, xây lâu đài lăng tẩm, ngành khai mỏ… Tuy nhiên các cơ sở sản xuất trên còn bé nhỏ và phân tán, lao động thủ công là phổ biến. Trong các ngành đó, triều Nguyễn vẫn bóc lột theo kiểu phong kiến.
Từ 1884 đến 1897, Pháp bắt đầu đầu tư vốn vào các ngành giao thông, khai mỏ, công nghiệp ở các thành phố và mở các đồn điền trồng cây công nghiệp. Công nghiệp Việt Nam bắt đầu phát triển, đội ngũ công nhân đầu tiên được hình thành, tuy còn hạn chế về số lượng và chất lượng. Lớp công nhân đầu tiên ở Việt Nam không phải ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến như ở các nước Châu Âu mà ra đời từ ba nguồn chủ yếu sau:
Thứ nhất, là từ giai cấp nông dân. Theo thống kê có gần 85 % giai cấp công nhân Việt Nam có nguồn gốc từ nông dân. Nông dân luôn là động lực, là đội quân chủ lực thúc đẩy sự phát triển lịch sử dân tộc. Trong quá trình xâm lược, đế quốc Pháp dùng nhiều thủ đoạn để chiếm ruộng đất của nông dân. Chủ tư bản Pháp dựa vào thế lực của mình, lợi dụng quan lại phong kiến để chiếm ruộng đất công, ép dân phải bán rẻ ruộng cho chúng. Hội truyền giáo lợi dụng mất mùa cho nông dân
43 Lênin. To n tà ập , NXB Tiến bộ ,Matxcơva, 1977, T.39, Tr. 17-18
vay tiền và cầm cố đất. Đến hạn không trả được nợ, ruộng đất của họ rơi vào tay Nhà Chung. Ruộng đất của nông dân rơi vào tay tư bản, cố đạo Pháp bằng đủ mọi cách. Nông dân Việt Nam bị phá sản hoặc làm thuê mướn chính trên mảnh đất cũ của mình, hoặc buộc phải ra thành phố vào các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ… làm thuê cho chủ tư bản, hoặc làm thuê cho các chủ tư bản ở các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy… Một số khác là những công nhân làm theo mùa vụ. Họ là nông dân tranh thủ những tháng nông nhàn ra hầm mỏ làm thuê kiếm thêm tiền.
Thứ hai, từ thợ thủ công bị phá sản và dân nghèo thành thị chiếm tỷ lệ khoảng 15. Ngành sản xuất thủ công Việt Nam chịu thuế nặng và sự cạnh tranh của chủ tư bản Pháp nên bị phá sản hàng loạt. Những người thợ thủ công bị phá sản trở thành người làm thuê cho tư bản Pháp trong các ngành làm giấy, dệt, nấu rượu…
Thứ ba, số ít từ thợ kỹ thuật Hoa Kiều. Thế kỷ XV, ở Việt Nam có nhiều người thợ kỹ thuật tài ba Trung Quốc sang làm ăn sinh sống. Tư bản Pháp tuyển mộ người công nhân kỹ thuật Hoa Kiều. Hầu hết các ngành công nghiệp quan trọng đều có công nhân Hoa Kiều. Sau này tư bản Pháp tăng dần số công nhân Việt Nam vào làm thay thế dần công nhân Hoa Kiều để hạ dần mức lương phải trả …
Người công nhân Việt Nam dưới ba tầng áp bức, đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ. Giai cấp công nhân ra đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, không có luật pháp nào che chở, không có quyền tự do, dân chủ. Đời sống vật chất của họ vô cùng cực khổ; đời sống tinh thần của họ là nỗi đau mất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam bị áp bức bóc lột, lao động ngặt nghèo dưới ba hình thức chủ yếu.
Thứ nhất là chế độ lao động tự do. Đây là hình thức tuyển mộ nhân công khá tiến bộ. Tuy vậy, nó chỉ được áp dụng rất hạn chế, trong phạm vi hẹp, dành cho viên chức và công nhân kỹ thuật ở thành phố, tỉnh lỵ. Công nhân không được hưởng quyền tự do, dân chủ tối thiểu như công nhân ở các nước Châu Âu.
Thứ hai là chế độ lao động theo giao kèo. Có hai hình thức tuyển mộ nhân công theo giao kèo. Hình thức thứ nhất, người làm thuê trực tiếp ký giao kèo với chủ tư bản Pháp có vẻ như “ thuận mua vừa bán”, song thực chất là họ mất ngay quyền tự do bán sức lao động ngay sau khi ký. Hình thức thứ hai, người làm thuê không trực tiếp ký giao kèo với chủ tư bản Pháp mà thông qua người trung gian giữa họ và chủ tư bản Pháp.
Thứ ba là chế độ lao động cưỡng bức. Khi mới xâm lược, thực dân Pháp áp dụng chế độ phu lao dịch của triều Nguyễn để có nhân công lập đồn điền, xây đường sắt, đường bộ, vận chuyển hàng hoá… Đây là lối bóc lột siêu kinh tế, trắng trợn và dã man, để lại trang sử đau thương trong lịch sử Việt Nam.
Ba chế độ lao động trên, tuy khác nhau về hình thức, nhưng đều nhằm mục đích bỏ ít vốn, thu giá trị thặng dư cao, bóc lột công nhân Việt Nam một cách triệt
để. Lương tháng của công nhân thời kỳ này được vài ba đồng bạc mà mỗi năm phải đóng tiền lấy một thẻ sưu là 2,5 đồng và nộp tiền thuế thẻ cư trú ở thành phố là 2 đồng. Đi ra khỏi xứ của mình phải lấy thẻ căn cước là 5 đồng. Đây là chưa kể những khoản "phụ thu tạm bổ" phí và tiền chè lá cho lý trưởng, trưởng phố. Ba tầng áp bức chồng chất lên vai giai cấp công nhân, đè nặng lên cuộc sống của họ làm cho đời sống rất cơ cực.
Từ đầu thế kỷ XX, thực dân pháp đẩy mạnh khai thác Việt Nam trên qui mô lớn. Phương thức bóc lột mới theo lối tư bản chủ nghĩa đã được du nhập vào Việt Nam, bắt đầu từ các khu vực kinh tế công thưong nghiệp. Nền kinh tế, tính chất chính trị, cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam bắt đầu có sự chuyển biến.
Nền công nghiệp ở Việt Nam không trải qua thời kỳ tích luỹ tư bản trong nước mà được xây dựng bằng vốn dầu tư của tư bản Pháp. Cuối thế kỷ XIX đã hình thành lớp công nhân đầu tiên ở Việt Nam. Họ chia thành hai trình độ là công nhân áo xanh và công nhân áo nâu. Công nhân áo xanh là những thợ chuyên môn có kỹ thuật họ trực tiếp điều khiển và tham dự vào quá trình vận động của máy móc cơ khí. Dù suốt cả thời kỳ chiếm đóng khai thác nước ta, thực dân Pháp không phát triển nhiều nền kỹ nghệ, nhưng vẫn có một số công nhân điều khiển và sửa chữa máy móc, thiết bị ở tất cả các xí nghiệp, hầm mỏ, công trường, đường giao thông.
Công nhân áo nâu là những công nhân đông đảo nhất tạo thành giai cấp vô sản Việt Nam. Họ tuyệt đại bộ phận xuất thân từ nông dân bần cùng hóa, bất cứ ử đâu, dù ở trong đồn điền, hầm mỏ hay xí nghiệp, bến tàu, đường giao thông… họ đều làm công việc nặng nhọc nhất, bị bóc lột mất lần và cũng khổ nhất. Công nhân áo nâu chiếm đa số và có nhiều loại. Trước hết là lớp công nhân nông nghiệp. Họ từ những dân cày nghèo bị mất ruộng phải làm thuê cho phú nông, địa chủ hay làm phu ở các đồn điền. Thứ hai là công nhân đồn điền cao su. Họ bị bóc lột theo phương thức tư bản chủ nghĩa, công cụ lao động chủ yếu là con dao phát hoang, cái cuốc, cái xẻng… Họ là việc trong các đồn điền và không biết đến quá trình sản xuất cơ khí hoá. Kế đến là công nhân mỏ. Họ cũng phải làm việc trong những điều kiện vô cùng cực khổ, làm những việc như đào đất, đẩy goòng… Cuối cùng, là công nhân trong ngành thương nghiệp và xí nghiệp công nghiệp. Phần lớn họ làm những công việc đơn giản như đóng thùng, làm đất…
Như vậy, có thể nói rằng, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ khi có sự xâm lược và khai thác của tư bản Pháp ở giai đoạn phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Tư bản Pháp đã tạo ra người đào huyệt chôn chính nó. Đồng chí Trường Chinh viết: “ Trong khi thi hành chính sách thuộc địa và bóc lột nhân dân Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc Pháp đã thu được một kết quả trái hẳn với mong muốn của chúng: Đó là sản sinh ra giai cấp công nhân, một giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh
đạo nhân dân Việt Nam chôn vùi chủ nghĩa đế quốc cùng bè lũ tay sai của chúng”.44
Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra và lớn lên không phải từ khi có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa của giai cấp tư sản dân tộc, mà ngay từ khi có sự khai thác lần đầu tiên của tư bản nước ngoài trên đất nước ta. Do nguồn gốc xuất thân như trên, giai cấp công nhân Việt Nam có khả năng lôi kéo các giai tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là nông dân. Họ kế thừa trọn vẹn và phát triển truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất, phẩm chất cần cù, sáng tạo của nông dân và của dân tộc. Con đường hình thành của giai cấp công nhân Việt Nam tạo ra một số đặc điểm về chất lượng, đồng thời là ưu điểm của bản thân họ.
2. Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam từ 1919 đến 1930
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế Pháp bị tàn phá nặng nề. Để bù đắp tổn thất do chiến tranh gây ra, đế quốc Pháp tăng cường xuất khẩu tư bản sang Đông Dương và các nước thuộc địa, mở đầu cuộc khai thác lần hai (1919- 1929) với quy mô và tính chất lớn gấp nhiều lần so với thời kỳ đầu (1897- 1914).
Từ 1924 đến 1928 tổng số vốn đầu tư của tư bản Pháp sang Đông Dương gấp 20 lần so với 20 năm trước. Thực dân Pháp thay thế máy móc cũ bằng máy móc hiện đại, nâng công suất nhà máy điện Hà Nội từ 1.000 KW (1914) lên 7.500 KW (1930); đưa sản lượng nhà máy xi măng Hải Phòng từ 9.200 tấn/năm (1912) lên 145.000 tấn/ năm (1927). Năm 1912 nhà máy sợi Nam Định có 2,5 vạn cọc sợi đến năm 1923 có 5,5 vạn cọc sợi. Vốn đầu tư vào ngành trồng cây cao su tăng vọt từ 6.983 ha (1919) lên 125.694 ha (1930). Diện tích đất khai mỏ từ 13 vạn ha (1913) lên 23 vạn ha (1929)… Các công ty tư bản chủ nghĩa lớn nhất của Pháp, nhà băng, nhà máy, đồn điền, hầm mỏ được mở rộng trên đất nước Việt Nam.
Cùng với tăng đầu tư của tư bản Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam phát triển nhanh sau cuộc khai thác lần thứ nhất( 1897-1914) và đặc biệt phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng trong cuộc khai thác lần hai (1919- 1929). Các ngành công nghiệp phát triển, dân số thành thị và các khu công nghiệp Việt Nam tăng vọt. Năm 1918, Hà Nội có 7 vạn dân, năm 1927 tăng lên 12 vạn;
Hải Phòng, năm 1893 có 1,5 vạn dân đến 1927 có gần 10 vạn dân…
Công nhân mỏ và đồn điền nhiều nơi tập trung hàng ngàn người như nhà máy dệt Nam Định tập trung 4. 000 công nhân; nhà máy xi măng Hải Phòng tập trung 3.000 người; xưởng xe lửa Trường Thi (Vinh) 1.000 người… Bên cạnh số công ty kinh doanh của tư bản Pháp, một số tư sản bản xứ như Công ty Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu, Lê Phát Vĩnh cũng có hàng nghìn công nhân làm việc. Số
44 Trường Chinh, Tiến lên dưới lá cờ Đảng, NXB Sự thật, HN, 1961,Tr6
lượng công nhân đồn điền năm 1906 có 6.000 người đến năm 1924 có 81.000 người; số công nhân mỏ năm 1906 có 6.000 người đến 1929 có 52.000 người; số công nhân ở hãng công thương nghiệp lớn của tư bản Pháp năm 1929 là 77 000 người.45
Theo thống kê của thực dân Pháp, tổng số công nhân ở các mỏ, đồn điền và xí nghiệp công thương lớn của tư bản Pháp đến 1914 có khoảng 10 vạn, năm 1929 là 221.050 người, đội ngũ giai cấp vô sản Việt Nam có tới 1 triệu người, bằng 5%
dân số.46 Năm 1929 riêng số công nhân trong các doanh nghiệp của người Pháp ở Đông Dương (chủ yếu ở Việt Nam) có tới 221.050 người, ngoài ra có khoảng 3 vạn công nhân làm thuê cho tư sản Việt Nam và Hoa kiều.
Một số công nhân qua con đường tuyển mộ cưỡng bức, nhất là công nhân đồn điền. Một số là bán vô sản , nhất là công nhân làm theo mùa, phu công nhân.
Trình độ văn hoá của công nhân Việt Nam thấp. Năm 1929 số công nhân kỹ thuật chiếm 0,43% tổng số công nhân. Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp, số lượng công nhân có tay nghề nâng lên, chất lượng và tính tập trung cao khiến họ trở thành một lực lượng quan trọng trong xã hội Việt Nam. Tình cảnh công nhân Việt Nam rất khổ cực do chính sách bóc lột dã man của thực dân Pháp. Đặc biệt là ở đồn điền cao su, công nhân bị bóc lột dã man như những người nô lệ. Công nhân Việt Nam lớn lên trong thời đại giải phóng dân tộc giành độc lập và dân chủ cho nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc đã phát triển. Giai cấp công nhân trở thành một bộ phận khăng khít của giai cấp công nhân thế giới, của cách mạng vô sản thế giới.
Sự hình thành và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là một quá trình tất yếu, biện chứng và hợp quy luật. Hoàn cảnh lịch sử của thời đại đã tác động mạnh đến công nhân Việt Nam. Do có những điều kiện khách quan và sớm chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và chủ nghĩa Mác- Lênin đã thức tỉnh, làm cho quá trình phát triển của công nhân Việt Nam sớm được thử thách trong thực tiễn đấu tranh, trở thành giai cấp duy nhất có khả năng nắm quyền lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.