Chương 3. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
3.5. Nhận thức luận duy vật biện chứng
3.5.2 Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn có vai trò quan trọng nhưng hầu như trong lịch sử triết học trước Mác, các nhà triết học chưa đưa ra được quan niệm đúng đắn về thực tiễn. Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Đây chính là khuyết điểm chủ yếu của lý luận nhận thức trước Mác.
Các nhà triết học thời cổ đại, tuy đã thấy được vai trò to lớn của lý luận nhưng nhìn chung họ chưa gắn được lý luận với thực tiễn. Aristotle được coi là người có công đề xuất phương pháp nghiên cứu khoa học bằng cách dựa vào và xử lý những cứ liệu quan sát được, tuy nhiên phương pháp nghiên cứu khoa học của ông cũng chưa tiến xa hơn sự quan sát để bước vào lĩnh vực thực tiễn rộng lớn.
Ở Ấn Độ cổ đại, các trường phái triết học tôn giáo rút kết luận của họ từ những suy lý thuần túy tách rời thực tiễn. Ở Trung Hoa, trường phái Đạo gia phủ nhận toàn bộ hoạt động thực tiễn của con người hướng tới văn minh vật chất và tinh thần. Những nhà triết học phái Nho gia, Pháp gia lại bó hẹp thực tiễn của họ trong lĩnh vực chính trị, đạo đức, chưa nhìn thấy lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân.
95
Trong suốt thời kỳ trung cổ do sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện, vai trò của thực tiễn đối với lý luận bị hoàn toàn phủ nhận. Sự phát triển của khoa học thực nghiệm thế kỷ XVII - XVIII là một bước phát triển mới của tư duy nhân loại khắc phục thế giới quan duy tâm, kinh viện. Tuy nhiên, các nhà triết học duy vật và khoa học tự nhiên thời bấy giờ như Copernicus, Galilei, Becon, Diderot, v.v., vẫn chủ yếu đồng nhất thực tiễn với hoạt động thực nghiệm khoa học.
Becon - nhà triết học duy vật Anh, người đặt nền móng cho sự phát triển của chủ nghĩa kinh nghiệm thế kỷ XVII - XVIII, khi đề cao vai trò của tri thức, ông đã nhấn mạnh nhiệm vụ của triết học là tìm ra con đường nhận thức giới tự nhiên.
Theo ông, quá trình nhận thức phải kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh viện. Nhận thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân quả, phát hiện và kiểm tra chân lý. Có thể nói, Becon là nhà triết học đầu tiên thấy được vai trò của thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức, trong quá trình hình thành tri thức.
Trong triết học cổ điển Đức, người đầu tiên bàn đến thực tiễn với tư cách là hoạt động có mục đích của con người là Kant. Theo ông, thực tiễn theo nghĩa hẹp là hoạt động đạo đức, theo nghĩa rộng là toàn bộ hoạt động chính trị, văn hoá và pháp quyền... của con người. Như vậy trong quan niệm của Kant, hoạt động thực tiễn là hoạt động tinh thần. Còn thực tiễn sản xuất của cải vật chất và cải tạo xã hội của con người thì hầu như Kant chưa bàn đến.
Hegel - một thiên tài triết học không chỉ của nước Đức mà còn của cả thế giới. Nhắc đến Hegel người ta nghĩ ngay đến “Ý niệm tuyệt đối”. Đây là phạm trù xuất phát, là phạm trù trung tâm trong triết học của ông. Ý niệm tuyệt đối tồn tại khách quan, độc lập với con người, có trước giới tự nhiên, có trước loài người, luôn luôn vận động, biến đổi và hiện hữu với tư cách là người sáng tạo. Xuất phát từ quan niệm đó, Hegel cho rằng: “Hành động thực tiễn là một “suy lý” lôgíc, một hình tượng lôgíc”1. Như vậy thực tiễn được nhắc đến chỉ là hoạt động “suy lý” tức là chỉ dừng lại ở hoạt động tinh thần. Và như vậy ông chưa thấy được vai trò to lớn của thực tiễn với tính cách là hoạt động vật chất.
Feuerbach - là triết gia duy vật kiệt xuất người Đức. Chủ nghĩa duy vật của ông là một trong những di sản tư tưởng mà Marx và Engels đã kế thừa. Trong triết học về con người, ông chỉ xem xét con người ở khía cạnh sinh vật, một sinh
1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.243.
96
vật hữu sinh, đau khổ và túng thiếu, con người phi giai cấp. Chính vì vậy ông không thấy được con người có thể thông qua các công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, gây biến đổi bộ mặt của giới tự nhiên, làm cho giới tự nhiên thích ứng với nhu cầu của con người. Nói cách khác, Feuerbach không thấy được vai trò của thực tiễn. Điều này đã được Marx nhận xét, ông chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn chỉ được ông xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện do thái bẩn thỉu của nó mà thôi. Vì vậy, ông không hiểu được ý nghĩa của hoạt động “cách mạng” của hoạt động “thực tiễn - phê phán”1.
Tất cả những quan niệm trên đều là những quan niệm còn hạn chế về lý luận và thực tiễn. Họ không thấy được vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức.
Thực tiễn đó chỉ xem xét ở mặt trực quan, khách thể, chứ không xem xét nó ở mặt thực tại, mặt chủ quan. Chính vì vậy, Marx đánh giá: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbăc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn”2. Mặc dù các nhà triết học trước Marx chưa nhận ra vai trò của toàn bộ hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, nhưng vai trò của thực nghiệm trong khoa học lại được đề cập đầu tiên và thực sự là một trong những tiền đề đặt nền tảng cho quan niệm thực tiễn của triết học Mác - Lênin.
Việc đưa thực tiễn vào lý luận nhận thức duy vật biện chứng, các nhà triết học mácxít đã làm nên một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức. Lenin khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”3; “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới một chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tish hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh nghiệm thuần túy”4.
1C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.9.
2 C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 19945 tr.9.
3 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.167.
4 C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.9-10.
97
Thực tiễn được hiểu là hoạt động vật chất có mục đích, có tính xã hội - lịch sử của con người nhằm làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
Các đặc trưng cơ bản để nhận biết đó là hoạt động thực tiễn: thứ nhất, đó là hoạt động vật chất (sử dụng các công cụ vật chất, tạo ra các sản phẩm vật chất).
Đây là đặc điểm cơ bản nhất để phân biệt hoạt động thực tiễn với hoạt động nhận thức (lý luận) và hoạt động tinh thần (phản ánh thế giới). Thứ hai, hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích. Về cơ bản các hoạt động của con người đều là hoạt động có mục đích. Đây là đặc điểm phân biệt hoạt động con người với hoạt động của con vật. Tuy nhiên, tính mục đích ở đây còn được hiểu là hoạt động đó phục vụ cho nhân loại tiến bộ. Những hoạt động có mục đích nhưng không phục vụ cho sự tiến bộ của nhân loại thì cũng không được gọi là hoạt động thực tiễn. Thí dụ, các hoạt động gây chiến tranh của các nước đi xâm lược, các hoạt động khủng bố trên thế giới đều không được gọi là hoạt động thực tiễn. Thứ ba, hoạt động thực tiễn có tính lịch sử - xã hội. Trong các xã hội khác nhau, các giai đoạn phát triển khác nhau, có các hoạt động thực tiễn khác nhau. Đây là ba đặc trưng cơ bản của hoạt động thực tiễn. Nếu không đáp ứng được ba đặc trưng này thì không được gọi là hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức phong phú: hoạt động lao động sản xuất vật chất, hoạt động thực nghiệm khoa học và hoạt động biến đổi xã hội.
Hoạt động lao động sản xuất vật chất là hình thức con người sử dụng các công cụ, phương tiện tác động vào giới tự nhiên tạo ra các sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người. Các hoạt động chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo
… đều xuất hiện muộn hơn khi con người đã thỏa mãn những nhu cầu về ăn, uống, ở, mặc…ở một mức độ nào nhất định. Hoạt động lao động sản xuất vật chất đã tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Chính nhờ hoạt động sản xuất vật chất mà xã hội mới tồn tại và phát triển, đem lại những biến đổi to lớn có tính quyết định: cơ thể con người không ngừng hoàn thiện và phát triển, có dáng đi đứng thẳng, có sự phân hoá rõ chức năng của tay, chân, óc; các giác quan cũng phát triển, thoát khỏi loài động vật; ngôn ngữ, phương tiện giao tiếp, trao đổi, xuất hiện và phát triển, hình thành nên các quan hệ về vật chất và tinh thần, tức là hình thành nên xã hội. Vì vậy, bất cứ xã hội nào cũng không thể tồn tại nếu không tiến hành hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất.
98
Hoạt động lao động sản xuất vật chất là hoạt động nguyên thuỷ nhất của loài người. Ở mỗi trình độ phát triển khác nhau của xã hội thì nó tương ứng với hoạt động sản xuất vật chất phù hợp. Như ở xã hội cộng đồng nguyên thuỷ khi mà trình độ phát triển của xã hội còn thấp kém, con người sống theo bầy đàn thì hoạt động sản xuất vật chất cũng chỉ dừng lại ở việc sử dụng những công cụ lao động thô sơ như bằng đá, bằng đồng để săn bắt và hái lượm. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Công cụ lao động thô sơ được thay thế bằng các công cụ lao động bằng kim loại. Hoạt động sản xuất vật chất của con người ngày càng phát triển theo. Các sản phẩm từ sản xuất vật chất ngày càng phong phú, đẹp, đáp ứng tốt hơn cuộc sống của con người. Sản xuất vật chất là cơ sở để hình thành tất cả các quan hệ xã hội khác như chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật.
Hoạt động biến đổi xã hội là hình thức thứ hai của hoạt động thực tiễn. Trong các hình thức của hoạt động thực tiễn. Đây là hình thức thực tiễn cao nhất. Mục đích cuối cùng của hoạt động thực tiễn là cải biến xã hội. Trong các xã hội có đấu tranh giai cấp, các giai cấp, tầng lớp bóc lột luôn luôn nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất, nắm quyền quản lý, tổ chức, phân phối, sử dụng sản phẩm; giai cấp, tầng lớp bị bóc lột là người trực tiếp tạo ra các sản phẩm cho xã hội, không sở hữu tư liệu sản xuất, không nắm giữ quyền quản lý, tổ chức và phân phối sản phẩm. Đây là nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội nhằm xoá bỏ xã hội cũ thiết lập xã hội mới, tiến bộ hơn, văn minh hơn. Đây cũng chính là đỉnh cao của hoạt động biến đổi xã hội.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt. Hình thức thực tiễn này được diễn ra chủ yếu trong các phòng thí nghiệm, các môi trường gần giống hoặc lặp lại trạng thái của tự nhiên, xã hội để tìm hiểu, nghiên cứu, tìm ra bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên và xã hội. Nếu không có thực nghiệm khoa học, các hoạt động sản xuất vật chất, cải biến xã hội không có đủ cơ sở để tìm ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, quá trình trong đời sống. Hoạt động này tập trung ở những nhà khoa học, người có trí tuệ và hiểu biết rộng.
Các hình thức của hoạt động thực tiễn tuy có sự khác nhau nhưng chúng thống nhất với nhau, đều là những hoạt động vật chất có tính xã hội - lịch sử với
99
chủ thể hoạt động là con người xã hội, có mục đích nhất định. Tuy nhiên, mỗi một hình thức cơ bản của thực tiễn lại có vai trò nhất định không thể thay thế cho nhau được. Giữa chúng có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở nảy sinh các hình thức hoạt động thực tiễn còn lại.
Hoạt động biến đổi xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học đúng đắn, tiến bộ, cách mạng thì sẽ tạo ra động lực cho hoạt động sản xuất vật chất phát triển. Ngược lại nếu các hoạt động đó mà lạc hậu, phản cách mạng thì sẽ là những lực cản kìm hãm sự phát triển của hoạt động sản xuất vật chất. Chính sự tác động qua lại đó làm cho thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức. Bên cạnh các hình thức thực tiễn cơ bản đó thì còn có những hình thức thực tiễn không cơ bản khác như các hoạt động y tế, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật.
Là hoạt động vật chất cải tạo thế giới, do đó hoạt động thực tiễn có vai trò to lớn trong toàn bộ đời sống của con người. Nó là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý.
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận. Con người luôn có nhu cầu giải thích và cải tạo thế giới. Muốn vậy, con người không ngừng tiến hành các hoạt động thực tiễn. Sự tác động của hoạt động thực tiễn đã làm cho đối tượng tự nhiên và xã hội bộc lộ ra những thuộc tính bên trong, những mối liên hệ bên trong và được phản ánh vào trong đầu óc con người, nhờ đó con người mới có tri thức về tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác mọi tri thức của con người đều bắt nguồn từ thực tiễn. Engels khẳng định: “Những nguyên lý được rút ra từ tự nhiên - xã hội, không phải tự nhiên - xã hội phải phù hợp với các nguyên lý mà trái lại những nguyên lý phải phù hợp với tự nhiên - xã hội”1. Đây là quan điểm duy vật nhất đối với sự vật. Tất cả những quan niệm khác đều là quan niệm duy tâm, lộn ngược mối quan hệ hiện thực. Chính vì vậy, trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Engels đã kịch kiệt phê phán tư tưởng sai lầm của Đuyrinh cho rằng: “Những nguyên lý rút ra từ tư duy, chứ không phải từ thế giới bên ngoài”2. Nếu những nguyên lý được rút ra từ tư duy thì chẳng khác nào cho rằng tri thức phụ thuộc vào nghệ thuật tranh luận. Lý luận không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan của một bộ óc thiên tài, càng không phải là sản phẩm của một đấng tối cao nào cả (thượng đế, ý
1 C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.54.
2 C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.54.
100
niệm tuyệt đối…) như theo quan điểm của các nhà triết học duy tâm trước Marx.
Nguồn gốc của lý luận phải là từ hoạt động cải biến tự nhiên và xã hội hay nói cách khác là từ thực tiễn.
Ban đầu con người thu thập những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá…để xây dựng nên lý luận, phản ánh bản chất, quy luật vận động của sự vật trong thế giới.
Do đó có thể nói thực tiễn cung cấp những tài liệu cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay đối với người khác, thế hệ này hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Các khoa học tự nhiên cũng ra đời từ thực tiễn sản xuất của con người.
Engels nói: “Cũng như các khoa học khác, toán học sinh ra từ nhu cầu thực tế của con người: từ việc đo đạt diện tích các khoảnh đất và việc đo dung tích của những bình chứa từ việc tính toán thời gian và từ cơ học”1. Sự ra đời của thiên văn học cũng luôn luôn gắn với sự chiêm nghiệm của con người về khí hậu, thời tiết trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và hàng hải. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng triệt để nhất và có tính khoa học sâu sắc nhất cũng ra đời và phát triển từ thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản, thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại giai cấp tư sản và các tầng lớp bóc lột khác.
Ngay cả những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên như tìm ra thuốc ngăn chặn sự phát triển của bệnh AIDS, bệnh ung thư, covid -19 v.v., cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa các bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người. Suy cho cùng, không có một lĩnh vực nào, tri thức nào mà không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát li thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở thực tiễn nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Chủ thể nhận thức sẽ không thể có được những tri thức đúng đắn, sâu sắc về thế giới.
Thứ hai, thực tiễn là động lực, mục đích của lý luận. Triết học Mác - Lênin cho rằng thực tiễn quyết định sự hình thành và phát triển của nhận thức. Thực tiễn không những là nguồn gốc của nhận thức mà còn là động lực nhận thức.
Động lực được hiểu là cái thúc đẩy hành động của con người. Sở dĩ thực tiễn là
1 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.720.