Điều 10. Các điều khoản quy định tính hiệu lực. Một tên hoặc mục danh pháp trở nên có hiệu lực chỉ với các điều kiện sau đây:
10.1.Các điều kiện chung. Một tên gọi hoặc mục danh pháp là có hiệu lực, cùng với tư cách tác giả và ngày công bố chỉ khi nó thỏa mãn các khoản của Điều này, và trong một vài trường hợp đáp ứng Điều 11 đến 20 (đối với ngày tháng và tác giả xem Điều 21 và 50). Một tên gọi có thể bị chi phối hiệu lực bởi Ủy ban Danh pháp [các Điều 78 đến 81] nếu các điều kiện này không được thỏa mãn đầy đủ.
10.1.1. Nếu công bố các số liệu liên quan đến một taxon hữu danh mới hoặc một mục danh pháp bị ngắt quãng và được tiếp tục sau đó, thì tên gọi hoặc mục danh pháp đó trở nên có hiệu lực chỉ khi các yêu cầu của các Điều khoản liên quan được đáp ứng.
Khuyến nghị 10A. Trách nhiệm của những người biên tập và xuất bản. Một người biên tập cần đảm bảo rằng toàn bộ mô tả và minh họa liên quan tới một taxon hữu danh mới, và đặc biệt bất kỳ mục danh pháp hoặc các số liệu cần thiết liên quan đến tính hiệu lực về tên gọi của nó được công bố trong cùng một công trình và cùng một thời gian.
10.2. Hiệu lực của các tên dưới phân loài. Một tên dưới phân loài là không có hiệu lực [Điều 45.5] từ công bố gốc của nó, trừ khi nó được công bố trước năm 1961 đối với một “thứ” (variety) hoặc “dạng” (form) thì được coi là có hiệu lực theo Điều 45.6.4.1. Nếu một tác giả sử dụng một tên, được công bố trước đây ở bậc dưới phân loài, trong một phương cách làm nó có hiệu lực đối với một loài hoặc phân loài, bằng cách đó tác giả xác lập nó như một tên mới và có tư cách của tác giả [Điều 45.5.1] (xem thêm Điều 23.3.4 và 50.3.1).
10.3. Hiệu lực của các tên đề nghị cho các nhóm tập thể và các taxon hóa thạch. Một tên được đề nghị cho một nhóm tập thể thì được xử lý như một tên
nhóm giống [Điều 42.2.1]; một tên được đề nghị cho một taxon hóa thạch là một tên nhóm họ, nhóm giống, hoăc nhóm loài, tùy theo cách thức trong đó nó được xác lập lần đầu (đối với các tên xác lập cho các taxon hóa thạch sử dụng cho nhóm giống, xem Điều 42.2.1).
10.4. Hiệu lực các tên đối với các đơn vị của các giống. Một tên đơn danh được đề nghị cho đơn vị nhóm giống của một giống, dù được đề nghị cho các đơn vị nhỏ hơn nữa thì được coi như tên phân giống, dù chúng được thể hiện bằng môt thuật ngữ như "section" (phần) hoặc "division" (bộ phận); nhưng một tên gọi được sử dụng cho một tập hợp loài được thể hiện bằng một từ như “trên loài" (superspecies) thì không được coi là một tên nhóm giống [Điều 6.2].
10.5. Hiệu lực các tên của các taxon có sau nhưng không được phân loại lần đầu như là động vật. Tên (hoặc các tên) của một taxon, gồm một taxon dựa trên một sinh vật không được phân loại lần đầu là động vật nhưng sau đó được phân loại là động vật, thì có hiệu lực từ công bố gốc của nó miễn là nó thỏa mãn các các điều khoản có liên quan của chương này, và không bị loại trừ bởi Luật Danh pháp [các Điều 1.3, 3], và miễn là nó là một tên hợp lệ tiềm năng đối với các Luật Danh pháp khác (Luật Danh pháp quốc tế về thực vật hoặc Luật Danh pháp quốc tế về vi khuẩn) có liên quan tới taxon.
10.6. Hiệu lực của sự mất hiệu lực nhờ tính hiệu lực. Một tên vẫn duy trì hiệu lực như đã có bất chấp sự mất hiệu lực của nó như một tên đồng vật phụ, một tên đồng danh phụ, một sự đính chính phi lý, một tên thay thế không cần thiết hoặc một tên đã bị đình chỉ, trừ khi Ủy ban Danh pháp có quyết định khác [các Điều 78.1, 78.2]. (Thậm chí nếu taxon có liên quan, mới được phân loại như động vật thì tên của nó vẫn còn hiệu lực [Điều 2.2]).
10.7. Hiệu lực của các tên không được ghi vào trong Tập có liên quan đã đươc chấp nhận của Danh sách các tên có hiệu lực trong Động vật học.
Không có tên nào mà chưa được ghi trong một Tập đã được chấp nhận của Bản danh sách của các tên có hiệu lực trong Động vật học mà có hiệu lực, bất chấp bất kỳ tính hiệu lực trước đây [Điều 79.4.3].
Điều 11. Các yêu cầu. Để có hiệu lực, một tên gọi hoặc một mục danh pháp cần thỏa mãn các điều khoản sau đây:
11.1. Công bố. Tên gọi hoặc mục danh pháp cần được công bố, trong phạm vi của Điều 8, sau năm 1757.
11.2. Bắt buôc sử dụng tiếng Latinh. Một tên khoa học khi được công bố lần đầu, cần sử dụng tên Latinh với 26 chữ cái (bao gồm cả các chữ j, k, w và y); sự hiện diện trong một tên gọi khi công bố lần đầu với các dấu trọng âm và các dấu khác, dấu móc lửng (‘) hoặc gạch nối (-), dấu nối, chữ số trong từ ghép tên nhóm loài, không làm cho tên mất hiệu lực (để hiệu chỉnh, xem các Điều 27 và 32.5.2).
11.3. Xuất xứ. Để đáp ứng các yêu cầu của Chương này, một tên gọi có thể là một từ Latin, Hy Lạp hoặc có gốc từ Latin, Hy Lạp hoặc bất kỳ ngôn ngữ nào khác (thậm chí không theo bảng chữ cái), hoặc được hình thành từ một từ như vậy. Nó có thể là một tổ hợp tùy hứng của các chữ miễn là nó được hình thành và được sử dụng như một từ.
Ví dụ: Toxostoma và brachyrhynchos từ chữ Hy Lạp; opossum từ chữ Ấn;
Abudefduf từ chữ Ả Rập; korsac từ tiếng Nga; nakpo từ tiếng Tây Tạng;
canguru từ tiếng Kokoimudji Aboriginal; Gythemon, chỉ là một tổ hợp chữ ngẫu nhiên. Tổ hợp ngẫu nhiên của các chữ cbafdg không thể được sử dụng như là một từ và không thể hình thành một tên gọi.
Khuyến nghị 11A. Sử dụng các tên biệt ngữ. Một từ biệt ngữ không biến đổi sẽ không thể sử dụng như một tên khoa học. Việc Latin hóa thích hợp là phương cách tốt để hình thành các tên từ các từ biệt ngữ.
11.4. Sự áp dụng kiên định danh pháp tên kép. Tác giả cần kiên định áp dụng nguyên tắc danh pháp tên kép [Điều 5.1] trong công trình trong đó tên hoặc mục danh pháp được công bố; tuy nhiên, Điều khoản này không áp dụng đối với tính hiệu lực của các tên taxon bậc trên nhóm họ.
11.4.1. Một công trình được công bố có chứa các tên nhóm họ hoặc tên nhóm giống mà không có các loài hữu danh liên đới vẫn được chấp là phù hợp với Nguyên tắc danh pháp tên kép khi không có bằng chứng trái ngược.
11.4.2. Tên khoa học của một phân loài, một tổ hợp ba từ [Điều5.2], được chấp nhận là phù hợp với Nguyên tắc danh pháp tên kép.
11.4.3. Một danh lục được công bố trước năm 1931 trong một công trình mà không phải là tên kép có thể chấp nhận như là công trình phù hợp với Nguyên tắc danh pháp tên kép miễn là Nguyên tắc được áp dụng phù hợp với các tên khoa học trong danh lục; như vậy một tên khoa học được công bố trong một danh lục như vậy là có hiệu lực nếu tên đó đáp ứng các điều khoản khác của Chương này và của các Điều 4, 5 và 6, và nếu đó là một kết nối rõ ràng giữa mục từ trong danh lục và mô tả, minh họa, hoặc dấu hiệu trong bài viết.
11.5. Các tên sẽ được sử dụng như tên hợp lệ khi được đề nghị. Để có hiệu lực, một tên gọi cần phải được sử dụng như hợp lệ cho một taxon khi được đề nghị, trừ khi nó được công bố lần đầu như một tên đồng vật phụ và sau đó được làm cho có hiệu lực theo các khoản của Điều 11.6.1.
11.5.1. Một tên gọi được đề nghị có điều kiện cho một taxon trước năm 1961 sẽ không bị loại trừ một mình [Điều 15].
11.5.2. Tư cách của một tên gọi không có hiệu lực trước đây là không được thay đổi bởi sự trích dẫn nó (nghĩa là, không có sự chấp nhận một taxon) thậm chí có kèm theo bằng một tài liệu tham khảo công trình, trong đó tên được công
bố nhưng đã không được làm cho có hiệu lực.
Ví dụ: Chemnitz, 1780 đã mô tả loài chân bụng Conus moluccensis và coi như tên hợp lệ, nhưng trong một từ nó không là tên kép thích hợp nên nó không có hiệu lực. Dillwyn, 1817 đã trích dẫn tên Conus moluccensis, nhưng đã không sử dụng như tên hợp lệ của một taxon. Tên Conus moluccensis là không có hiệu lực bởi việc làm của Dillwyn, mặc dù việc trích dẫn của ông ta kèm theo một tài liệu tham khảo với công trình của Chemnitz. Tuy nhiên, Küster (1838) áp dụng tên gọi trên cho một taxon và đã gán nó cho Chemnitz bằng tham khảo thư mục, do đó làm cho tên Conus moluccensis Küster, 1838 trở nên có hiệu lực.
11.6. Công bố như một tên đồng vật. Một tên khi được công bố lần đầu trong một công trình có hiệu lực được xem như một tên đồng vật phụ của một tên khi đó được sử dụng như hợp lệ thì không bằng cách ấy làm cho nó có hiệu lực.
11.6.1. Tuy nhiên, nếu tên như vậy được công bố như một tên đồng vật phụ đã được xử lý trước năm 1961 như một tên có hiệu lực và, hoặc đã được chấp nhận như là tên của một taxon hoặc được xem như một tên đồng danh chính, thì bằng cách ấy nó được làm có hiệu lực, nhưng tính ngày công bố từ công bố đầu tiên như một tên đồng vật (đối với loài chuẩn nếu một tên nhóm giống xem Điều 67.12; đối với mẫu chuẩn mang tên nếu một tên nhóm loài, xem Điều 72.4.3; đối với tư cách tác giả xem Điều 50.7).
Ví dụ: Meigen (1818), khi bàn luận về Ceratopogon flavipes Meigen (Diptera), cho rằng ông ta đã nhận được tài liệu từ Megerle dưới tên bản thảo là Palpomyia geniculata. Theo đó Palpomyia đã được công bố như một tên đồng vật của Ceratopogon là một tên có hiệu lực bởi vì trước năm 1961 nó đã được sử dụng như một tên hợp lệ; nó đã được coi là thuộc về Meigen, 1818. Tên loài geniculata, chưa bao giờ được chấp nhận, nên không có hiệu lực từ Meigen (1818).
11.6.2. Một tên gọi được công bố trước năm 1758 nhưng sau năm 1757 được trích dẫn như một tên đồng vật của một tên được sử dụng hợp lệ sẽ không có hiệu lực theo Điều 11.6.
Ví dụ: Tên "Cidaris miliaris Klein" (của Klein, 1734) được trích dẫn bởi Linnaeus (1758) trong phần tên đồng vật của Echinus esculentus Linnaeus, 1758 không trở thành có hiệu lực từ Linnaeus (1758) mà chỉ như là một kết quả của sự chấp nhận cho một taxon bởi tác giả khác.
11.6.3. Một tên được công bố lần đầu sau năm 1960 và được xử lý như một tên đồng vật phụ trong trường hợp đó cũng không thể làm cho nó có hiệu lực từ việc làm đó theo Điều 11.6.
11.7. Các tên nhóm họ
11.7.1. Một tên nhóm họ khi được công bố lần đầu cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
11.7.1.1. là một danh từ số nhiều chủ ngữ được tạo thành từ tên gốc của một tên giống có hiệu lực [Điều 29] (được thể hiện bởi sự liên quan rõ ràng đến tên giống hoặc bằng suy luận từ tên gốc của nó, nhưng đối với các tên nhóm họ đã đề nghị sau năm 1999 thì xem Điều 16.2); tên giống cần phải là tên được sử dụng hợp lệ sau đó trong taxon nhóm họ mới [các Điều 63, 64] (việc sử dụng một mình tên gốc trong việc tạo thành tên được chấp nhận như bằng chứng cho thấy tác giả đã sử dụng tên giống hợp lệ trong taxon nhóm họ trừ khi có bằng chứng chống lại);
Ví dụ: Tên Eryciinae Robineau-Desvoidy, 1830 (âm gốc Erycinae) là có hiệu lực bởi vì nó được công bố cho taxon nhóm họ, gồm có giống Erycia Robineau- Desvoidy, 1830. Tên Trichoceridae Rondani, 1841 là có hiệu lực, mặc dù đã đề nghị không dứt khoát tên Trichocera Meigen, 1803, do nó được công bố trong một công trình phân loại các họ của bộ Diptera ở châu Âu với sự tham khảo công trình của Meigen và với sự khẳng định rõ ràng của nguyên tắc Rondani về sự hình thành tất cả các tên họ trên cơ sở tên của một giống liên đới. Pinnidae Leach, 1819 bao gồm không chỉ Modiola Lamarck, 1801 và Mytilus Linnaeus, 1758, nhưng đồng thời, theo sự suy luận từ tên gốc, Pinna Linnaeus, 1758, được hình thành trước đây nên nó có hiệu lực. Tên "Macromydae" của Robineau- Desvoidy (1830) không có hiệu lực bởi vì, mặc dù được hình thành từ tên nhóm đã được Latinh hóa (không phải là biệt ngữ), nó là một thuật ngữ mô tả dùng cho một nhóm giống mà không có Macromya Robineau-Desvoidy, 1830, một giống được đặt trong hoàn cảnh của một bộ phận khác và xa của họ Tachinidae.
11.7.1.2. được sử dụng rõ ràng như một tên khoa học để biểu thị một taxon trên giống và không đơn thuần là một danh từ số nhiều hoặc tính từ dành cho các thành viên của một giống;
Ví dụ: Osten Sacken (1882) đã công bố một khóa định loại cho mười một loài của giống côn trùng hai cánh Graptomyza với tên gọi "Graptomyzae của Indo- Malayan Archipelago". Từ "Graptomyzae" là một danh từ số nhiều chỉ dành cho
"các loài của giống Graptomyza"; mà không có hiệu lực như một tên nhóm họ.
11.7.1.3. kết thúc với một hậu tố tên nhóm họ, ngoại trừ như được chỉ ra ở Điều 11.7.2; một tên nhóm họ của nhóm mà hậu tố nhóm họ [Điều 29.2] không đúng vẫn có hiệu lực với tư cách tác giả và ngày công bố gốc, nhưng với một hậu tố đã được sửa đúng [các Điều 29, 32.5.3];
Ví dụ: Latreille (1802) đã được xác lập họ Tipulariae, trên cơ sở Tipula Linnaeus, 1758. Hậu tố -ariae được chỉnh đúng là -idae; Tipulidae bởi Latreille mà không thuộc tác giả tu chỉnh dầu tiên.
11.7.1.4. không thể sử dụng những tên bất kỳ áp dụng cho các hóa thạch và kết thúc với các hậu tố -ites, -ytes hoặc -ithes [Điều 20];
11.7.1.5. không thể sử dụng một tên nhóm giống bất kỳ đã bị đình chỉ bởi Ủy ban Danh pháp [Điều 78].
11.7.2. Nếu một tên nhóm họ được công bố trước năm 1900, phù hợp với các khoản của Điều này nhưng không phải gốc Latin, nó có có hiệu lực với tác giả và ngày công bố chỉ khi nó được Latinh hóa bằng các tác giả sau đó và được chấp nhận hợp lệ bởi các tác giả quan tâm đến nhóm đó và ngày công bố lần đầu trong dạng biệt ngữ.
Ví dụ: Tên họ mối là Tetranychidae, được cho là thuộc Donnadieu, 1875. Mặc dù ông ta công bố tên là " Tétranycidés", nhưng nó được chấp nhận với các tên Tetranychidae từ 1875 và nó vẫn được cho là công trình và ngày công bố của Donnadieu, chứ không phải Murray (1877) người dầu tiên Latin hóa nó.
11.8. Tên nhóm giống. Một tên nhóm giống (xem thêm Điều 10.3) phải là một từ của hai hoặc nhiều hơn các chữ và là một danh từ chủ ngữ số ít.
11.8.1. Một tên nhóm giống được đề nghị trong một bài viết Latin nhưng được viết khác với dạng danh từ số ít do yêu cầu ngữ pháp Latin thì vẫn có hiệu lực, miễn là nó đáp ứng các yêu cầu khác của hiệu lực, nhưng nó phải được sửa lại đúng theo ngữ pháp Latin.
Ví dụ: Tên giống Diplotoxa (Diptera) đã đề nghị bởi Loew (1863) trong một thông báo tên là "Chlorops versicolor nov. sp." như sau: "Chlor. versicolor cum similibus proprium giống ... constituit, cui nomen Diplotoxae propono"
[Chlor. versicolor và các loài tương tự được xem là một giống riêng biệt, và đề nghị tên là Diplotoxa].
11.9. Các tên nhóm loài
11.9.1. Một tên nhóm loài cần phải là một từ có 2 chữ trở lên, hoặc một từ phức (xem Điều 11.9.5), và, nếu là một từ Latin hoặc Latin hóa cần phải, hoặc cần được xử lý như:
11.9.1.1. một tính từ hoặc tính động từ dạng chủ ngữ đơn (như Echinus esculentus, Felis marmorata, Seioptera vibrans), hoặc
11.9.1.2. một danh từ dang chủ ngữ đơn ghép vào tên giống (như Struthio camelus, Cercopithecus diana), hoặc
11.9.1.3. một danh từ sở hữu cách (ví như rosae, sturionis, thermopylarum, galliae, sanctipauli, sanctaehelenae, cuvieri, merianae, smithorum), hoặc 11.9.1.4. một tính từ được sử dụng như một danh từ trong trường hợp sở hữu cách và xuất phát từ tên loài của một loài liên đới (như Lernaeocera lusci, một giáp xác ký sinh ở Trisopterus luscus).
11.9.2. Một tên nhóm loài dạng tính từ được đề nghị trong một bài viết Latin nhưng được viết dạng khác với dạng chủ ngữ đơn bởi các yêu cầu ngữ pháp Latin thì vẫn có hiệu lực miễn là đáp ứng các yêu cầu khác của hiệu lực, nhưng cần được sửa thành dạng chủ ngữ đơn nếu cấn thiết.
Ví dụ: Kèm theo việc tu chỉnh của mình về các loài Musca grossa và M.