Đặc điểm của văn miêu tả

Một phần của tài liệu Dạy tập làm văn ở trường tiểu học (Trang 103 - 107)

DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN

A. CÁC DẠNG LỜI NÓI VÁ

2. Đặc điểm của văn miêu tả

a) Đặc điểm trước tiên là vồn miêu tả mang tính thông báo, thấm mĩy chứa đựng tình cảm cúa người viết. Dù là tả một con mèo, một con gà, một cây bàng thay lá mùa thu đến một cánh đồng lúa chín, một cảnh nhà ga hay bến tàu ..., bao giờ người viết cũng đánh giá chúng theo một quan điểm thẩm mĩ, cũng gửi vào bài viết ít nhieu tình cảm hay ý kiến đánh eiá, bình luận của mình. Do vậy lừng chi tiết của bài mieu tả đều mans ấn tượng cảm xúc chủ qua .

"Cành thông, lá liỗu" trong hai câu thơ của Hồ Xuân Hươne nêu trên mane rất rổ dấu ấn cá tính của nhà they qua các chi tiết vừa giàu tính tạo hình vừa eiàu sức sốne tiem tàng (lất lẻo, cơn gió thốc, đầm đìa, eiọt sương gieo).

Đặc điểm này làm cho miêu tả trong vãn học khác hẳn miêu tả trong khoa học (như troné sinh học, địa lí học, khảo cổ học ...).

Miêu tả trong phân mồn TLV cũng khác hẳn miêu tả trong mòn Khoa học thườne thức hoặc Tìm hiểu tự nhiên và xa hội.

Hay so sánh hai đoạn miêu tả cùng một con vật : con bướm.

Đoạn thứ nhất trích từ sách Khoa học thường thức :

"Thân bướm cỏ 3 phân : đầu, ngực, bụng. Phan neực có bốn cánh, sáu chân. Bướm bay được nhở hai đồi cánh là hai màns rộng bản. Chúng cỏ vảy phấn bao phủ nên khồne troné như cánh chuồn chuồn".

Đoạn mieu tả này gạt bỏ hắn cam xúc riène cùa neười viết. Các chi liêt hiẹn ra chính xác nhưng thạt lạnh lung. Hơn nữa ó’ đàv neười

1 0 3

ta chỉ nêu ra nhữnc chi tiết chỉ đặc điểm chung của loài bướm (cấu tạo thân, cánh. .. ) và hỏ qua đặc điểm riêng của từng con bướm.

Đoạn thứ hai trích từ một tác phẩm vãn học của Vũ Tú Nam được đùnc làm bài Tập đọc, có tựa đồ "Những cánh bướm ben bờ song" (sách Tiếng Việt 4, tập một).

"Ngoài giờ học. chúng tồi tha thẩn ở bờ sòng bát bướm. Chao ỏi, những con bướm du hình dáng, đủ sắc màu. Con xanh biếc pha đen như nhung bay nhanh loang loáne. Con vàng sẫm, nhiều hình mặt nguyệt, ven cánh cỏ rang cưa, lượn lờ đờ như ư ôi trong nắng.

Con bướm quạ to bằnc hai bàn tay người lớn, màu nâu xỉn, có hình đồi mát tròn, vẻ dữ tợn. Bướm ưắne bay theo đàn líu ríu như hoa náng. Loại bướm nhỏ den lật, là là theo chiều gió, hệt như tàn than của những đám đốt nương. Còn lũ bướm vàng tươi xinh xinh của những vườn rau thì rụt rè, nhút nhát, chana bao giở dám bay ra đến bờ soné" .

Ngay từ đâu doạn miéu tả, tình cảm của tác giả dối với nhửng cánh buxhĩầ đa dược xác dịnh. Đó là sự yêu thích, say mê bộc lộ qua hành dộng tha thẩn bên bở sồng để bắt bướm, qua lời phát biểu trực tiếp "Chao ỏi, nhữnc con bướm dủ hình dáne, dủ sắc màu", lừng chi tier tả loại bướm dỏu cắn lien với niềm say mô dỏ, deu chứng tó sự gắn bó, hòa quyện tâm hỏn của tác giả với thiên nhien.

Néu khống như vậy, làm sao có thổ nhận ra cái dáng bay của đàn bướm tráng "líu ríu như hoa năng", lam sao lại cổ thể cố sự liên tưởng mới mỏ này :"loại bướm nhỏ, den kịt, là là theo chieu ció, hẹt như tàn than của những đám dốt nương... ".

b) Dặc điểm thứ hai là vàn miêu tá có tính sinh động và tạo hình

f)ạc điểm quan trọng này thườnc chưa dược làm rỏ trong các tài liệu vỏ van miêu tà dung tronc nhà trườnc hiện nay. Đây là phẩm 106

chất của một bài miêu tả hay . M. Gorki cỏ lần phân tích : "Dùng từ để "tô điểm" cho người và vạt là một việc. Tả họ mỏt cách sinh động, cụ thể đến nỏi người ta muốn lấy tay sờ, như người ta thường muốn sờ mó các nhân vật trong Chiến tranh và hòa hình của Lép - Tôn-xtồi, đó là một việc khác"(*)-

Một bài miêu tả được coi là sinh động, tạo hình khi các sự vật, đồ vật, phong cách, con người... được miêu tả hiện lên qua từng câu, tìmg dòng như trong cuộc sống thực, tưởng như có thể cầm nắm được, có thể nhìn, ngắm được hoặc "sờ mó" được như cách nói của Gorki. Trong Những chiếc ấm đất của Nguyễn Tuân, đoạn miêu tả cảnh người đầy tớ già gánh nước từ trên chùa về làng Ịà một đoạn miêu tả giàu chất tạo hình. Đoạn này kiệm lời, kiệm chi tiết nhưng sức gợi trong tâm tưởng người đọc lại lớn.

"Trên con đường đất cát khô nồi nước tròng trành theo bước chân mau của người đầy tớ già đánh rỏ xuống mật đường những hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Những hình sao ướt nối nhau trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài bò sát".

Có thể tìm nhiều dẫn chứng như vậy trong tác phẩm của Nguyễn Tuân cũng như trong tác phẩm của các ngòi bút miêu tả bậc thầy như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hưorng, Nguyên Khuyến...

Gorki có lần đã nói lên sự khâm phục của mình trước những trang miêu tả thần diệu của Ban-dắc trong tác phẩm Miếng da lừa :

"Tôi thực sự kinh ngạc khi đọc những trang tả bữa tiệc ở nhà ông chủ nhà băng trong tiểu thuyết Miếng da lừa của Ban-dắc. Ở đó có đến vài chục người cùng nói, tạo nên cảnh ồn ào hỗn độn và tồi tưởng như nghe thấy những âm thanh phưc tạp ấy. Nhưng cái chính là tối khỏng chỉ nghe thấy mà tôi còn trônơ thấy ai nói như thế nào. Tỏi thấy con mát, nụ cười, điệu bộ của họ mặc dù Ban-dăc

(*) M.Gorki - Hàn vỏ víìn học. I. I, NXR Vãn học, Hà Nội. tr, 228.

107

không tả mạt mày hình dáng các vị khách của ông chủ nhà băng".

'Ở đây Ban-dắc chỉ dùng những cảu chuyên rời rạc bên bàn ăn mà vẽ lên được những khuôn mặt và những tính cách rõ nét lạ lùng"(*)-

Làm nên sự sinh động, tạo hình của văn miêu tả là những chi tiết sống, gây ấn tượng ... Tước bỏ chúng đi, bài miêu tả sẽ trở nên mờ nhạt, vô vị. Bài tả "Những cánh bướm bên bờ sồng" sẽ thế nào nếu bị xóa đi các chi tiết "tha thẩn ở bờ sông, đen như nhung, bay nhanh loang loáng, nhiều hình mặt nguyệt, ven cánh có răng cưa, lượn lờ đờ như trồi trong nắng, líu ríu như hoa nắng, là là theo chiều gió, hệt như tàn than của những đám đốt nưorng..." ? Bài văn sẽ trơ ra như bộ xương khố. Đọc nó tưởng như bắt gặp nụ cười nhợt nhạt của một người khồng còn sinh khí. Tuy nhiên cần chú ý tránh một khuynh hướng ngược lại là đưa quá nhiều chi tiết để bài miêu tả trở nên rườm rà theo kiểu liệt kê đơn điệu. Cần phải gạt bỏ đi các chi tiết thừa, không có sức gợi tả hay gợi cảm để cho bài miêu tả gọn và giàu chất tạo hình. Những chi tiết sinh động lấy ở đâu ? Lấy từ sự quan sát cuộc sống quanh ta, từ kinh nghiêm sống của bản thân. Có bắt nguồn từ trong thực tế, có thai nghén trong kinh nghiệm, vãn của ta mới cụ thể và linh hoạt.

Tuốc-ghê-nhi-ép có lần tâm sự : "Khi tôi mô tả cái mũi màu đỏ hay mái tóc màu sáng, thì quả nhiên mái tóc ấy màu sáng, cái mũi áy màu đỏ thật và điều đỏ không có cách gì bác bỏ được. Để tôi có thể viết ra được một cái gì đấy, tôi cần được thường xuyên lẫn lộn với những con người, nắm được họ trong trạng thái sống"(**).

(*) M Gorki . Tài liộu đ i dẫn, t l , tr. 22.

(**) A Xây -tlin - Tíii liỌu dĩí dản, t 11. tr. 7.

108

c) Đặc điểm th ứ ba là ngôn ngữ miêu tá giàu cảm xúc và hình ảnh

Chỉ cỏ như vậy ngôn ngữ miêu tả mới có khả nãng diẽn tả cảm xúc của người viết, V0 được sinh động, tạo hình đối tượne miêu tả.

Quan sát nhiều văn bản miêu tả, người ta thấy ngôn ngữ miêu tả giàu các tính từ, động từ, thường hay sử dụne phép nhân hóa, so sánh, ẩn dụ. Do sự phối hợp của các tính từ (màu sắc, phẩm c h ấ t...), của các động từ với các biện pháp tu từ, ngôn neữ miẽu tả luôn tỏa sáng lung linh troné lòng người dọc, gợi lên troné lồne họ những cảm xúc, lình cảm, ấn tượng, hình ảnh vồ sự vật dược miêu tả. Hây đọc một văn bản tả cảnh có ngôn neữ giàu hình ảnh : "đó là một buổi chiều mùa hạ có mây tráng xô duổi nhau trôn cao. Nồn trời xanh vời vợi. Con chim sơn ca cất tiene hót tự do, tha thiết đến nỗi khiến người ta phải ao ước giá mình có một đôi cánh. Trải khắp cánh đồng là nắng chiều vàng lịm và thơm hơi đất, là giỏ đưa thoang thoảng lúa ngậm đòng và hương sen "(Đỗ Chu).

Một phần của tài liệu Dạy tập làm văn ở trường tiểu học (Trang 103 - 107)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(200 trang)