Văn tường thuật trong trường tiểu học

Một phần của tài liệu Dạy tập làm văn ở trường tiểu học (Trang 134 - 139)

DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN

B. KỂ CHUYỆN TRONG VÃN HỌC VÀ VÀN KỂ CHUYỆN TRONG NHÀ TRUỜNG

3. Văn tường thuật trong trường tiểu học

Ở lớp này, HS học cách kể lại nhữn& viộc đom giản da làm (việc rửa mặt buổi Sán2, việc rửa ấm chén, việc quét sân...) Lên lốp 4 các em tiếp tục học vãn tường thuật (thuật lại một việc tốt em đa làm ở lớp, một việc tốt em dã làm ở 2ia đình...) Các em còn học vãn tường thuật ở lớp 5 (thuật lại những việc em làm vào ngày chủ nhật, thuật lại một buổi học thích thú...).

HS tiểu học cần học vãn tườne thuật vì đây là loại văn không chỉ cản cho báo chí mà còn cân để sử dụng trong nhieu trường hcrp khác (Thuật lại một thí nchiẹm, thuật lại nội dune một cuốn sách khoa học...) khi các em học lên l(ýp trôn.

IV - BỔI DƯỠNG CHO HỌC SINH TÂM HỒN

n h ạ y c ả m, g i à u c ả m x ú c ; HƯỚNG DẪN HỌC SINH

TÍCH LŨY VỐN HIỂU BIẾT VỀ MỌI MẶT VÀ KIÊN TRÌ LUYỆN TẬP CÁC Kỉ NẤNG LÀM BÀI VĂN

Bài tập làm văn là sản phẩm tổng hợp của HS. I ian lre^n ra yờu càu vạn dụntằ nhữne kiến thức ve ngon ngữ học, VC cac loại văn học vào dạy và học tập làm vãn. Song khong P ai c 1 thế. Muon cỏ bài tập lam vãn tốt, các em còn can boi ương ta n hỏn, cảm xúc, tích lũy von hiểu biốt ve cuộc sống, cac tri t ưc van

136

hóa chung thông qua các môn học, đặc biệt phải có sự kiên trì luyện tập các kĩ năng làm bài văn.

Làm một bài tập làm văn, các em HS trước tiên bộc lộ trên ưang giấy lình cảm yêu ghét của mình đối với con đường từ nhà đến trường em thường đi học, quyển lịch nhà em, cây có bóng mát bên dường, lấm gương miệt mài luyện tập thành tài... Hây đọc bài văn của một HS thành phố Hồ Chí Minh tả một em bé đang tuổi tập nói, tập đi :

"Dì Út của em có một bé trai tên Hoàng Huy. Bé Huy đang ừ tuổi tập nói và đa biết đi tập tễnh. Em không cổ em ruột nên rất thích bé.

Dáng bé tròn trịa vứi chiếc quần mặc bó sát đùi và cái áo thun ba lỗ. Mái tóc thưa, mẻm mại. Hai gò má bé ửng hồng và phúng phình. Em thường nhéo vào đôi má ấy để nghe bé kêu lên giận dỗi.

Những khi em đi học vé, Huy rất mừng vì dược em cho kẹo kim.

Bé Huy thích chơi trò bán bánh. Bánh làm bằng đất in trong cái chén nhựa, dặt vào mấy lá mận rụng trong sân nhà em.

Dì Út dạy cho Huy nói tiếng "ba" thì Huy lại nổi "á, á". Vài ngày sau, dì dạy Huy liếng "má", Huy lại nói lù "ba ba" làm ai cũng phì cười.

Em thương bé Huy như em ruột của mình. Hôm nào bé di đâu vắng, em nhác tên Huy không ng(h làm ba mẹ em cũng nhớ theo"

(Ván Khanh).

Đọc xong bài văn, ta thấy tình cảm của Vân Khanh dối với bé Huy ra sao ? Bao trùm cả bài là lòng yêu thương, trìu mến. Tinh câm ấy ẩn hiện dằng sau từng chi tiêt miêu tả hình dáng tròn như hột mít cua Huy. Ngắm bé, Vân Khanh phát hiện ra vé ’tròn trịa", nghe dì út dạy bé, Vân Khanh nhận ra cách nói ngộ nghĩnh. Dằng sau các từ ngữ, các chi tiẽt ây là tình yêu cúa người viết bài vth

em bé được miêu tá. Có lúc tình cảm ấy đưcỵc bộc lộ trực diện thành câu, thành lời trong bài.

Bài làm văn nào cũng là sự thể hiện các trạng thái tình cảm của HS. Chỉ có những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, hồn nhiên mới tạo ra nhữne đoạn văn, bài văn đáng yêu và đạt kết quả cao. Vì thế (ỈV phải giúp chỏ HS tự bồi dưỡng tình cảm, cảm xúc, dạy các em biết yêu quý thiết tha bố mẹ, anh chị em, con dường em di học, con gà nuôi trong sân, con lợn nuôi trong chuồng..., dạy tôn trọng từng quyển sách, cái bút..., những dồ vật gần gũi hằng ngày, dạy các em có tinh thần hào hiệp giúp đõ các bạn tàn tật, những người gặp khó khãn... Chính những tình cảm ấy se tạo nên mạch ngầm làm cho bài văn của các em sống động, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Những bài văn bị chê là khô như ngói, không truyền cảm... vì người làm bài thiếu cái mạch ngầm đa nói trên. Điều đáng tiếc là gần dây, điều này ít dưực GV chú ý và nhắc nhở HS.

Bài TLV còn là sản phẩm thể hiện rồ vốn hiểu biết đời sống, trình độ kiến thức văn hóa của HS. Có câu văn sau "Vỏ chuối màu vàng có những chấm màu đen li ti như chiếc áo hoa lộng láy". So sánh vó chuối trứng cuốc vứi chiếc áo hoa lộng lãy là chưa đúng, không hay. Lỗi này do đâu ? Vì không hiểu nghĩa từ lộng lãy hay do chưa dược ngắm kĩ những quả chuối trứng cuốc, những chiếc áo dài dẹp hấp dẫn... ? Có le chủ yếu vì lí do thứ hai. Nói cách khác, do thiếu hiểu biết vè quả chuối nên đa có sự so sánh không chính xác Chính vì neắm bé Huy và thường xuyên luôn choi vói em nổn Vân Khanh mới có thề tìm ra ý thích của bé : choi trò bán bánh, mói biết ro : hanh làm bằng đất in trong cái chén nhựa và dùng chicc lá ntận rụng để dựng. Những hiểu biêt cụ thể trên, Vân Khanh lây ra tư những gi em da biết về bé Huy nên sinh động, hấp dẫn người dọc.

CiV cán dạy cho HS biết quan sát ghi nhó cảnh vật, con người xung quanh. (¡V càn téí chức cho HS tham gia các hoạt động như 138

đi thóm danh lam thắng cảnh, di thăm những hà mẹ anh hựnô, trũ chuyện với các chiến sĩ quân dội,... Những hoạt dộng ấy cỏ tác dụng nhiồu mặt. Riêng với việc học tập làm văn, nó cung cấp cho HS những hiểu biết các chi tiết sống dộng... để có thể làm được bài vãn tưởng thuật cuộc tham quan, kể lại chuyện người tốt,...

Nhiều HS khi làm bài TLV cảm thấy khỏ, thấy bí, thấy không biết viết gì, nói gì. Nguyên nhân quan trọng vì các em thiêu vốn sống, thiếu hiểu biết những gì liên quan dến bài làm. Khổng cỏ nguyên liệu làm sao có sản phẩm ? Chưa di thăm một cảnh dẹp nào bao giờ làm sao có thể làm được bài tường thuật cuộc di thăm dó ? HS ở thành phố không cỏ vườn trồng rau làm sao làm được bài tả vườn rau nhà em ?

Vốn hiếu biết vẻ d(Yi sống của HS dược hình thành từ hai nguồn : từ hoạt dộng hằng ngày và qua sách báo, truyền hình, truyền thanh.

Đó là vốn sống trực liếp và vốn sống gián tiếp. Trong chương 1, khi dề cập dốn quan hệ giữa tập làm văn với tập dọc và kể chuyện, chúng la da nói dín tác dụng cung cấp vốn sống gián tiếp cho HS của các bài tạp đọc, các cầu chuyện kể. Ở dây ta nhấn mạnh thêm tác dụng này của các phương tiện thông tin đại chúng đang phát triển nhanh và mạnh như báo chí, phát thanh, truyền hình và gần đày là mạng in-tơ nét. Nhở các phương tiện trên, vốn sống gián tiếp của HS dược mở rộng ra thế giới, trơ lại V(ýj những thế kỉ xa xưa.

Sống Hai Phòng. Đà Nang, Đổng Nai, Nam Định. .. các em có thể dược biết sinh hoạt và cảnh vật của các vùng, các tỉnh khác trong nước, của Pa-ri, Nữu-ước, những cánh dồng của úc. những dàn voi Châu Phi... qua màn hình ti-vi. Hây giờ vốn sống gián tiếp của trẻ em thành phố, thị xa, thị trấn, của các gia đình cỏ máy thu hình... tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên, mọt bộ phận khổng nhỏ HS chưa có diều kiện vật chất dể mớ rộng vốn sống thì hiổu biết của các em còn nghèo, còn khỏ khăn. Dạy lập làm văn, (ỈV không the bỏ qua diều này.

Dù vốn sống gián tiếp có tăng bao nhiêu song vốn sống trực tiếp vẫn cân và rất quý đối với việc học TLV. Con người ta có trải qua, kinh qua mới hiểu, mới biết, mới cảm, mới nhận một cách sâu sãc.

Chính sự hiểu biết và rung động mạnh m6 ấy sc tạo ra mạch ngầm của bài văn như đã nói. Ảnh hưởng tích cực của các hoạt động ngoại khỏa, các hoạt động xà hội, của sinh hoạt đội thiếu niên, sao nhi đồng, các hoạt động văn thể ... đối với việc học 11-V là ở chỗ đỏ.

Nhược điểm lớn hiện nay là nhieu GV, nhieu trương tiểu học chưa chú trọng đẩy mạnh các hoạt động thực tien, hoạt động ngoại khóa hỗ trợ cho việc học TLV. HS bị bó hẹp trong bốn bức tường của lớp học và gia đình. Đây là một nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học TLV.

TLV là mòn học thực hành. Kết quả của TLV dựa trên sự huy dộng nhiều kỉ năng khác nhau : kĩ năng phát âm và nói, kĩ năng viết chữ, kĩ năng dùng từ, đặt cầu, viết bài... Lí thuyết cho thấy, muốn cố ki nàng phải qua một giai đoạn dài luyện tập. Kĩ năng là kêt quả của sự luyện tập, thực hành gian khổ, là sản phẩm của lòng kiên trì. Hiện nay HS còn luyện tập quá ít. Các kĩ năng chưa hình thành nhưng vản cứ phải sử dụng vào bài TLV. Vì thế gây ra nhiêu loại lối không đáng có. Cân làm cho HS thấm nhuân một quan niộm : muốn học có kết quả TLV phải chịu khó tập viết, tập nỏi, tạp dùng từ, dật câu, viết doạn ... nhieu lân. Khong ngại tập di tập lại. Không ngại sửa đi sửa lại đoạn văn, câu văn dã viét. Bản thân CjV cũng cản kien trì hướng dãn HS luyện tập và giúp các em sửa chữa các sai sót. Mọt câu chám ngõn da nói 1 tài năng một phan mươi là bẩm sinh, chín phần mười do lao dộng kiên tn làm nên.

140

Chương III

Một phần của tài liệu Dạy tập làm văn ở trường tiểu học (Trang 134 - 139)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(200 trang)