Về việc nghiên cứu hình thái học của văn học nghệ thuật

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 27 - 32)

Trong đời sống hàng ngày, muốn hiểu biết về đối tƣợng, nhất là những đối tƣợng phức tạp, một trong những thao tác đầu tiên là phải phân loại.

Nhu cầu phân loại được hình thành ngay từ thuở sơ khai, khi con người muốn duy trì cuộc sống của mình giữa thiên nhiên hoang dã. Loại cây trái này lành hay độc? Loại muông thú kia hiền hay dữ? Quan trọng biết chừng nào, một sự phân loại có vẻ đơn giản và ngây thơ như vậy. Sau này, ngay trong quan hệ giữa người và người, người ta đã bao lần tìm cách phân loại trước cộng đồng của mình. Ông Quán trong truyện Lục Vân Tiên đã kể rạch ròi những loại người và việc đáng ghét và đáng thương.

Xem qua kinh sử mấy lần

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương

Trong chính trị, phân loại bạn thù, trong kinh doanh, phân loại thương trường và đối tác... Đời thường đã vậy, hoạt động trí tuệ, hoạt động khoa học kỹ thuật, thao tác đầu tiên đó càng cần thiết. Phân loại đất đai, khoáng sản (địa chất), phân loại động thực vật (sinh học) các kiểu dạng tâm lý (tâm lý học) các loại từ và câu (ngôn ngữ học)...

Phân loại đối tƣợng nhằm mục đích khai thác, sử dụng, ứng xử. Phân loại sai sẽ ứng xử sai. Trong đời thường, thì trái lành dùng như trái độc,người ghét biến thành người thương.

Trong khoa học từ phân loại trong lý thuyết đến khai thác ứng dụng trong thực hành, sai một ly đi một dặm.

Trước khi phân loại, bao giờ cùng phải xác định tiêu chí: phân loại trái cây như trên là theo tiêu chí lợi hoặc hại cho sự sống của con người, phân loại người đáng ghét hay đáng thương là theo tiêu chí vì dân hay hai dân. Tiêu chí phân

28

loại trong khoa học cũng sẽ hình thành nhƣ vậy.

Khoa học phát triển, càng đòi hỏi ở phân loại như một thứ phương pháp luận. một khoa học thƣc sự, từ đó, khoa hình thái học (morphologie) đã ra đời.

Đến đầu thế kỷ này, ngoài hình thái học thuộc khoa học tự nhiên (sinh học, địa chất), chỉ mới có hình thái học trong ngôn ngữ học. Về văn học nghệ thuật, thuật ngữ hình thái học đƣợc dùng từ đầu thế kỷ với công trình Hình thái học tiểu thuyết (K.Tiande) và công trình phôncơlo của V. Prop - Hình thái học truyện cổ tích. Mỹ học đương đại có các công trình của nhà mỹ học Mỹ Tômát Manrô Hình thái học nghệ thuật và tác phẩn cùng tên của nhà mỹ học Nga M. Kagan. Thuật ngữ hình thái học của văn học đƣợc dùng đầu tiên trong Bách khoa từ điển văn học của Nga, xuất bản năm 1930.

Nhìn chung tuy không dùng thuật ngữ hình thái học, nhƣng hầu hết các công trình tổng quát về lý luận mỹ học, lý luận văn học nghệ thuật trước nay đều có dành một phần riêng để phân loại. Trước khi có khoa hình thái học, vẫn có những quan niệm, những tư tưởng phân loại, không những trong ngành lý luận mà ngay trong các công trình nghiên cứu lịch sử và phê bình nghệ thuật. Suốt hơn hai nghìn năm từ Platôn, Aritxtốt trở đi, qua mỗi thời đại, ở đâu có những nhà triết học mỹ học lớn, các nhà văn và nghệ sĩ lớn, đều có ít nhiều quan niệm hình thái học, đều có thể có ý kiến về vấn đề phân loại văn học nghệ thuật, hoặc thể hiện bằng lý thuyết hoặc trực tiếp sáng tác, định hình một thể loại mới góp vào bảng danh mục phân loại của nền nghệ thuật dân tộc và nhân loại.

Từ cái mốc đánh dấu đỉnh cao của tư tưởng hình thái học nghệ thuật thời cổ đại là Arítxtốt. trải qua những bước thăng trầm cùng với lịch sử mỹ học và văn học đến giữa thế kỷ XVIII tư tưởng hình thái học mới đạt tới đỉnh cao mới với tên tuổi của s. Báttơ (Pháp), I.

Hécđe, V. Krúc (Đức). Những quan điểm về

29

đặc trƣng nghệ thuật của họ và tiêu chí để phân loại văn học nghệ thuật đã đạt đến trình độ chính xác và hoàn bị mà đến nay cũng chƣa vƣợt đƣợc thậm chí có vấn đề khoa hình thái học hiện nay cũng chƣa đạt đƣợc. Sang đầu thế kỷ XIX sự phân tích lịch sử và biện chứng về hình thái học nghệ thuật lại đạt đỉnh cao mới với Giáo trình mỹ học của Hêgel.

Khoa hình thái học nói riêng, mỹ học nói chung tại Liên Xô và Đông Âu chỉ thực sự phát triển từ những năm 60 với những công trình của Lukacs, Xkaternokov, Pospelov, Kojinov. Đến những năm 70, thuật ngữ "Hình thái học nghệ thuật" bắt đầu đƣợc sử dụng trong cuốn sách chuyên luận của Kagan, Hình thái học nghệ thuật. (Nhà xuất bản "Nghệ thuật", Lêningrát, 1972). Đến năm 1975, trong cuốn Mỹ học (Nhà xuất bản Chính trị Mạc Tƣ Khoa), tác giả Bôrev đã giành một chương phân loại nghệ thuật với đầu đề Mỹ học - hình thái học của nghệ thuật. Theo Kagan, tác giả đầu tiên đặt cơ sở lý luận về phân loại nghệ thuật trong mỹ học Nga hiện đại là Xkaternokov. Người xác định quan điểm phân loại phải căn cứ vào nhu cầu xã hội đối với nghệ thuật là nhà mỹ học Hungari Lukacs. Và người phân tích theo quan điểm lịch sử về vai trò của các loại hình nghệ thuật một cách "chính xác kỳ lạ", đó là Đimitriêva (chuyên luận Văn học và các loại hình nghệ thuật khác; in trong Tiểu Bách khoa toàn thư văn học, 1967).

Trong lịch sử khoa hình thái học nước ta, có thể nói công trình cổ nhất có Dư địa chí của Nguyễn Trãi (TKXV), là công trình địa lý lịch sử đầu tiên có miêu tả phân loại địa dƣ và sản vật tài nguyên đất nước. về văn học, có Lê Quý Đôn ( TKXVIII) nhà bác học đã có công sưu tầm phân loại nhiều lãnh vực trong đó có văn học dân tộc (Lê Triều Thông Sử chương Văn Nghệ chí: Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục). Học giả Phan Huy Chú (TK XVIII-XIX) với bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của nước ta là Lịch triều hiến chương loại chí, mục Văn tịch chí đã giới thiệu 213 bộ sách trong đó về văn chương có đủ các thể loại.

30

Thời kỳ đầu thế kỷ này, nhà nghiên cứu có công trình biên khảo giá trị về văn học, phân loại văn học, là Phan Kế Bính với tác phẩm Việt Hán văn khảo. Vào những năm 40 công trình văn học sử giáo khoa đầu tiên có phân chia các loại văn của nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu đã có giá trị mở đầu cho khoa nghiên cứu hình thái học văn học thời hiện đại.

Từ cuối thập kỷ 50 về sau, ngành lý luận văn học nước ta mở đầu việc nghiên cứu hình thái học, phân chia loại thể văn học với những giáo trình và từ điển văn học liên tục được xuất bản cho các khoa văn đại học, với các nhà luận văn học Nguyên Lương Ngọc, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Ngọc Hiến, Hà Minh Đức, Phương Lựu... Tư tưởng phân loại thường theo trào lưu lý thuyết của Liên Xô, lấy nguồn gốc từ Arítxtôt, Hêgel - Bêlinxky... Những năm 90 viết về loại thể cho giáo khoa trường phổ thông có Lê Ngọc Trà, Trần Đình Sử.

Tóm lại, tư tưởng phân loại văn học nghệ thuật xuất hiện rất sớm từ cổ đại, và qua các thời đại sau, đều có đánh dấu những thành tựu, những kinh nghiệm và bước tiến quan trọng, để có một ngành khoa học nhƣ hôm nay, với chức năng nhƣ sau : Hình thái học nghệ thuật là một khoa học mang tínnh chất phương pháp luận, có đối tượng là toàn bộ thế giới nghệ thuật, vận dụng các hệ tiêu chí khác nhau để phân chia nghệ thuật thành các nhóm, loại, thể, theo cấp độ từ lớn tới nhỏ, nhầm xây dựng cấu trúc nghệ thuật, giúp cho việc nghiên cứu lý thuyết về đặc trưng nghệ thuật, đồng thời giúp cho các hoạt động sáng tác, nghiên cứu, tiếp nhận, thông tin và giáo dục nghệ thuật một bản đồ xác thực về nghệ thuật để hành động có hiệu quả.

Những mục tiêu của hình thái học nghệ thuật qua suốt hàng nghìn năm lịch sử. quy tụ lại cũng là khám phá đặc trƣng của nghệ thuật nói chung và đặc trƣng của từng loại hình nói riêng. Đặc trƣng chung nhằm phân biệt nghệ thuật với phi nghệ thuật, với các hoạt động thực tiễn khác. Đặc trƣng riêng nhằm phân biệt

31

nghệ thuật này với nghệ thuật khác. Từng bước một, hình thái học phấn đấu vạch một đường viền tổng thể phân biệt thế giới nghệ thuật trong thực tiễn mênh mông của con người, rồi bên trong lại vạch những đường ranh giới phân chia từng nhóm, từng cấp, những loại hình nghệ thuật khác nhau. Muốn có những đường ranh giới đó phải có những tiêu chí phân loại.

Sự phát hiện ra những tiêu chí phân loại chính là thành tựu của tư tưởng hình thái học.

Tiêu chí thường là một cặp gồm hai khái niệm có tính chất đối lập. Từ cổ đại đến nay những từ ngữ đƣợc dùng gọi tên các tiêu chí mỗi thời một khác, nhƣng ý nghĩa khái niệm vẫn không thay đổi. Những cặp tiêu chí người xưa đã từng phát hiện để phân chia đặc trưng nghệ thuật diễn đạt theo từ ngữ hiện đại là :

 tiêu chí bản thể : NT không gian / NT thời gian Thí dụ: hội họa / âm nhạc

 tiêu chí tâm lý : NT thị giác / NT thính giác Thí dụ: hội họa / âm nhạc

điêu khắc / âm nhạc

 tiêu chí ký hiệu : NT miêu tả / NT không miêu tả (còn gọi: NT tạo hình / NT biểu hiện) Thí dụ : điêu khắc / kiến trúc

tự sự / trữ tình

 tiêu chí chức năng : NT ứng dụng / NT thẩm mỹ (NT thuần nhất) Thí dụ : kiến trúc / điêu khắc

ký, chính luận/ tự sự, trữ tình

Mỗi cặp tiêu chí có khả năng vạch một đường ranh bổ đôi cả hệ thống nghệ thuật, do đó có thể gọi mỗi cặp là một hệ tiêu chí. Tương tự như ý nghĩa "Tạo hình - biểu hiện", mỹ học cổ đại còn có hệ tiêu chí "khách quan - chủ quan"(*).

Trong số 4 cặp tiêu chí tiêu biểu đƣợc nêu trên đây, có cặp tiêu chí thứ tƣ thuộc hệ tiêu chí chức năng - chức năng ích dụng và chức năng thẩm mỹ, là vấn đề thuộc đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn này.

(*) Còn có thể chia nghệ thuật theo các hệ tiêu chí khác, nhƣ NT ngôn ngữ / phi ngôn ngữ, NT biểu diễn / không biển diễn... Có nghệ thuật kết hợp cả hai hệ tiêu chí, nhƣ múa đƣợc gọi là NT không gian / thời gian hoặc kết hợp nhiều tiêu chí, nhƣ sân khấu, điện ảnh. gọi là NT tổng hợp (gồm cả không gian / thời gian thị giác / thính giác v.v...) Về văn học, còn chia văn truyền miệng / văn học viết.

32

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 27 - 32)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(238 trang)