CHƯƠNG II: CHỨC NĂNG THẨM MỸ - PHI NGHỆ THUẬT
II. Tính tạo hình và biểu hiện trong văn bản khoa học chính luận và nghệ thuật
2. Hai cực văn sử - từ Aritxtốt, Hêgel, đến lý luận hiện đại
Trong lịch sử tư tưởng hình thái học, sự phân biệt, tách bạch hai loại hình văn và sử thuộc nhận thức nghệ thuật và nhận thức khoa học là một đầu mối thường xuyên phải tháo gỡ. Có hai hiện tƣợng diễn ra trong thực hành, đó là sự tách bạch văn và sử, hai loại văn bản khác nhau ở hai đầu cực của nhận thức, hai là văn sử bất phân, thứ văn bản nửa văn nửa sử.
Trường hợp thứ nhất, như tiểu thuyết Chiến Tranh Và Hòa Bình của văn hào Tônxtôi, và một cuốn thông sử viết về giai đoạn lịch sử trung đại nước Nga khi có cuộc chiến tranh chống xâm lƣợc Napôlêông năm 1812. Thí dụ gần hơn : tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức và cuốn lịch sử chiến tranh chống Mỹ của huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang trong đó có kể lại trận chiến đấu ở hang Hòn, và gương hy sinh của chị Tư Phùng, Trưởng ban phụ nữ Châu Thành, nguyên mẫu của nhân vật Sứ trong Hòn đất. Trường hợp thứ hai, là các văn bản ký sự lịch sử, truyện sử, và cả thể loại ký văn học nói chung (Sử ký Tư Mã Thiên, Hoàng Lê nhất thống chí... Mười ngày rung chuyển thế giới, Ký sự Cao Lạng). Hình thức sau là sự thực hành ở giai đoạn quá độ giữa hai cực, gọi là nửa nghệ thuật.
Tuy nhiên, sự tách bạch, phân biệt giữa lịch sử ký sự và lịch sử tiểu thuyết cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, và "văn sử bất phân", theo nghĩa rộng, vẫn có thể dùng với trường hợp của lịch sử tiểu thuyết.
Để thấy sự thống nhất về quan niệm trong sự so sánh văn và sử ta nên đối chiếu với ý kiến của các nhà mỹ học các thời đại trước, đặc biệt là Aritxtốt và Hêgel.
Aritxiốt đã viết:
91
"Nhiệm vụ của nhà thơ không phải là ở chỗ nói về sự việc đã thực sự xảy ra, mà là nói về cái có thể xảy ra theo qui luật của xác suất hay qui luật tất nhiên. Chính nhà sử học và nhà thơ khác nhau không phải ở chỗ một người thì dùng cách luật, còn người kia thì không dùng - vì có thể đem trước tác của Hêrôđôt đổi thành văn vần, nhưng trước sau chúng vẫn là lịch sử, có vần hay không có vần cũng vậy - họ khác nhau ở chỗ : nhà sử học nói về những điều đã xảy ra thực sự, còn nhà thơ thì nói về những gì có thể xảy ra. Vậy thơ ca có ý vị triết học và nghiêm chỉnh hơn lịch sử, vì thơ ca nói về cái chung, mà lịch sử nói về cái cá biệt (LV nhấn mạnh) (Chương IX, Nghệ thuật thơ ca).
Ý kiến này ông còn nhắc lại lần nữa ở chương XXV : "Những quy luật của chính trị học và của thơ ca cũng không giống nhau". Ông phân biệt hai loại sai lầm của nhà thơ, một loại sai lầm của sáng tạo nghệ thuật, hai là sai lầm "ngẫu nhiên", không liên quan đến sáng tạo nghệ thuật. Sai lầm thứ hai này liên quan đến tƣ duy khoa học là chủ yếu. Ví dụ : nhà thơ miêu tả một con ngựa cùng một lúc cất cả hai chân phải lên, hoặc nhà thơ phạm phải "một sai lầm mang tính chuyên môn nghề nghiệp về y học hay một nghề nào đó" cũng "không có liên quan đến bản thân nghệ thuật thơ ca". Cũng trong chương này, ông phát biểu một câu rất tiêu biểu để phân biệt hai phương thức sáng tạo như sau :
"Nếu nhà thơ không biết rằng con hươu cái không có sừng, thì đó là một sai lầm không đáng kể bằng việc nhà thơ không miêu tả nó một cách sinh động” (40 c)
Hai nghìn năm sau, Hêgel đã nói lại một quan niệm tương tự như Arixtốt, về tính
"ngẫu nhiên" "cá biệt" của những sự kiện lịch sử, và tính "tết yếu" tính quy luật của những sự kiện của nghệ thuật, Hêgel nói:
"Yếu tố các tác phẩm lịch sử không khỏi có những đặc điểm ngẫu nhiên của hiện thực, sự kiện với các biến cố, các cá nhân, các điểm đặc
92
thù, trong lúc đó tác phẩm nghệ thuật nêu rõ cho chúng ta thấy những lực lƣợng vĩnh viễn sáng tạo lịch sử mà không có những nét thứ yếu của sự tồn tại cảm tính trực tiếp và cái vẻ bên ngoài không có nội dung của nó." "... Chúng ta phải thừa nhận rằng các tác phẩm nghệ thuật có một thực tại cao hơn và chân thật hơn so với tồn tại khách quan hằng ngày." (I4, TIA, I3).
Hêgel chỉ rõ sự hứng thú và hấp dẫn riêng do những văn bản lịch sử gợi là ở chỗ "nhà sử gia không chỉ bằng lòng ở chỗ ghi lại các chi tiết cho chínhxác là đủ. Một mặt anh ta lo trình bày các sự kiện cho có thứ tự, cấp cho nó một hình thức nhất định, tập hợp lại thành một hình ảnh rõ ràng minh bạch về một cái dân tộc mà anh ta kể lại các đường nét các diễn biến và các hành động ở trong một thời kỳ nhất định, nêu lên đƣợc những đức tính cao thƣợng hay nhu nhƣợc của những cá nhân nổi bật... Vì vậy mà ngày nay chúng ta còn nói đến nghệ thuật của một Hêrôđốt, một Taxít hay một vài người khác và chúng ta vẫn thán phục cách tự sự của họ cho đó là những công trình kinh điển của nghệ thuật ngôn ngữ." Nhƣng cuối cùng ông vẫn nói:
"Song ... không phải là ở cách viết sử mà ở nội dung của sử", "Người ta thấy trong các sự kiện lịch sử có sự can thiệp của những yếu tố ngẫu nhiên, có sự đoạn tuyệt giữa cái bản chất và cái tương đối của những biến cố và những sự kiện ngẫu nhiên đặc biệt, các nhân vật với những tính cách và dục vọng cũng tách rời tính phổ biến...
... "Anh ta - nhà sử học - phải kể lại cái tồn tại nhƣ nó đang tồn tại chứ không đƣợc thuyết minh một cách võ đoán và xuyên tạc cho nó nên thơ... Anh ta vẫn không thể tự do bắt các hoàn cảnh, các tính cách và các biến cố phải phục tùng các mục đích ấy" ("cái mục đích đối lập với các
93
nhân vật lịch sử vẫn tồn tại từ trước trong trạng thái tiềm tàng ở trong hiện thực lịch sử")
"Anh ta vẫn để mặc sự kiện nhƣ nó xuất hiện trong thực tế với tất cả những gì là ngẫu nhiên, là tình cờ, với tất cả cái vẻ võ đoán của nó " ...
... "Vì mục đích trước sau duy nhất, vì nhằm đạt đến cái công dụng thực tiễn cho nên nó toát ra từ trí tuệ, chứ không phải là trực tiếp toát ra từ cuộc sống hồn nhiên và tự do (14 : T IV A, 38,39 40 41).
Ta thấy trong sự so sánh sử và văn, Hêgel, cũng như Aritxtốt trước đó, đã luôn luôn nhấn mạnh yếu tố ngẫu nhiên, cá biệt, không có tính quy luật tất yếu và phổ biến, những điều mà nghệ thuật đã và phải đạt được. Do đó mà nghệ thuật là cao hơn hiện thực thông thường.
Hơn nữa, tính cá biệt của hiện tƣợng lịch sử thu hẹp vào ý nghĩa cá nhân và dân tộc, còn trái lại, "những điều kỳ diệu của thơ là bắt buộc bao giờ cũng phải thu vào cái gì có một giá trị toàn nhân loại" (14).
Nhƣng không thể nhầm lẫn ý nghĩa cá biệt - không điển hình không tiêu biểu của hiện tƣợng lịch sử với cái cá biệt mang tính khái quát và điển hình trong hình tƣợng nghệ thuật.
Cũng như cái ngẫu nhiên của hiện tượng lịch sử cũng khác với cái "dường như ngẫu nhiên"
trong sáng tạo nghệ thuật.
Sau những phân tích về sự khác biệt giữa văn và sử, Aritxtốt đã khẳng định : "Thơ ca nghiêm chỉnh hơn lịch sử" cần xem nhận xét đó trong bối cảnh của ngành sử mới manh nha thời cổ đại, còn chƣa ý thức đƣợc đầy đủ về tiêu chuẩn khoa học trong sử, thậm chí còn hƣ cấu nghệ thuật vào, "chính vì vậy, sử học hiện đại không xem đó là những công trình khoa học" ( II6 : 17). Mặt khác, trong Nghệ Thuật thơ ca, Aritxtốt thường xuyên ca ngợi tác phẩm IIiát và Ôđitxê của Hômer, xem nhƣ mẫu mực của sáng tạo nghệ thuật trong đó có tính chân thật về miêu tả hiện thực.
Sau Aritxtôt, Hêgel, tư tưởng phân biệt khoa học và nghệ thuật, sử và văn, của các nhà lý luận và các nghệ sĩ đã có sự nối tiếp và gần nhƣ nhất trí.
94
Văn hào Tônxtôi cũng đã nói về tính không điển hình của sự thực nguyên mẫu :
"Đúng là tôi hay viết dựa vào nguyên mẫu... Nhƣng tôi nghĩ rằng nếu viết dựa trực tiếp vào nguyên mẫu là một con người nào đấy thì như vậy sẽ hoàn toàn không điển hình, sẽ thành một cái gì đơn nhất, loại biệt mà không thú vị " (LV nhấn mạnh) (55 : II3). Đơn nhất, loại biệt, một lần nữa, ta cũng thấy trùng hợp với nhận xét về cái cá biệt của Aritxtốt và Hêgel.
Nhà văn Gôntsarôv nói:
"Nhà bác học chẳng xây dựng một cái gì cả mà là phát hiện cái sự thực có sẵn ẩn nấp trong tự nhiên, còn người nghệ sĩ thì xây dựng những cái giống như thật, tức là sự thực do anh ta quan sát được phản ánh vào tưởng tượng của anh ta, rồi anh ta chuyển những phản ánh đó vào tác phẩm của mình. Nhƣ vậy có nghĩa là sự thật của nghệ thuật và sự thật của hiện thực không phải là một. Một hiện tƣợng đƣợc chuyển hoàn toàn từ cuộc sống vào tác phẩm nghệ thuật sẽ bị mất tính chần lý của hiện thực và không trở thành sự thật nghệ thuật đƣợc ..."
(LV nhấn mạnh) (55:304).
Tại Việt Nam, quan niệm về văn và sử cũng đã có qua sách vở cổ. Trong các tác phẩm nhƣ Vân Đài loại ngữ, Quần Thƣ khảo biện, Lê Quí Đôn đã chú ý phân biệt chức năng của sử và văn. Ông dẫn lời của nhà sử học đời Nguyên là Yến Hề Tư, về việc chọn người viết sử : "Việc soạn sử lấy việc dùng người làm gốc. Người có văn mà không biết chép sử không thể cho dự vào sử quán". Ông cho rằng viết sử mà chỉ chú trọng vào "lời lẽ hay", không coi trọng chú thích, bình giải, là không hợp cách. Nhƣng ông đã không phân biệt đƣợc giữa tài liệu lịch sử và tiểu thuyết lịch sử, nên đã dựa vào sách "ủy hạng tùng đàm" để trách tác giả Tam Quốc Chí La Quán Trung : "Sách Tam Quốc diễn nghĩa của La
95
Quán Trung tựa vào chính sử bịa đặt ra nhiều điều không hợp lý... thế mà có người dùng sách ấy cho là chuyện lạ, dương dương tự đắc mà không tỉnh ngộ" (Vân Đài loại ngữ). Những lời quở trách loại này không chỉ có ở Lê Quí Đôn. mà trong đời sống văn học người ta vẫn thường gặp, khi văn học mượn đề tài lịch sử.
Ở nước ta, một trong những nhà nghiên cứu về lý luận sáng tác đầu tiên thời hiện đại đã bàn về cách viết văn (lịch sử ký sự, lịch sử tiểu thuyết), và cách viết sử, đó là Vũ Ngọc Phan. Ý kiến của ông tuy giản dị, nhƣng cũng có cơ sở lý luận. Ông viết:
"Một việc thuộc về lịch sử là một việc nhƣ thế nào? - Một việc thuộc về xã hội. Tuy vậy, một việc thuộc về cá nhân cũng có thể là một việc thuộc về lịch sử, khi việc ấy có ảnh hưởng đến xã hội, đến một thời đại. Trong trường hợp ấy, có thể là một việc về tình ái, như việc Lê Hoàng tư thông với Dương Thái hậu hay việc Antoine say mê Cléopâtre; một việc về sinh lý, nhƣ bệnh giang mai của Lê Long Đĩnh hay bệnh sốt của Alexandre Grand. Vậy chỉ khi nào một việc về cá nhân có ảnh hưởng to tác, nhà chép sử mới lưu tâm đến. Langois và Seignobos đã viết: "Một việc cá nhân đáng coi là một việc thuộc về lịch sử (un fait historique), một là việc ấy có thể làm gương cho người và tạo thành một tục lệ, hai là việc ấy do ở một người giữ quyền dìu dắt nhiều người, như một vị quốc trưởng, một viên tướng cầm quân hay một ông giáo chủ; bởi thế cho nên nước Anh đã thay đổi 3 lần tôn giáo vì cái chết của một ông hoàng”. Nhà sử học có thể lấy câu thơ này của Vygny làm tôn chỉ "Yêu lấy những cái ta không thấy đƣợc hai lần" ( Aimez ce que jamais on ne verra deux fois). Nói tóm lại, một việc về lịch sử là một việc có một không hai..." ( 81 :I68, I69).
Ý kiến trên của Vũ Ngọc Phan cũng nhằm vào luận điểm về tính cá biệt của hiện tƣợng lịch sử.
96
Từ việc dùng từ đồng âm "hình tƣợng" trong khoa học và cả trong nghệ thuật, thì cũng có thể dùng từ "điển hình" là đồng âm, khi nói về điển hình xã hội và điển hình nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ đã viết:
"Khoa học xã hội nhằm đạt tới những quy luật chung nhất chi phối sự phát triển... Các ngành khoa học xã hội xem xét, nghiên cứu các mặt hoạt động khác nhau của con người trong tính quy định xã hội của nó, nhìn vào tính "lắp đi lắp lại" mà phân loại, phân biệt các hạng người khác nhau thành những điển hình xã hội... Cái xã hội, cái lịch sử, cái cá nhân là thống nhất nhưng không đồng nhất. Con đường để đạt tới cái điển hình trong khoa học và trong văn học nghệ thuật không hoàn toàn giống nhau. Điều này cũng đã đƣợc Lênin vạch rõ trong các bức thƣ gởi Inexơ Ácmăng."(45 ; I34, I36).
Trong "trường thẩm mỹ dù chưa phải nghệ thuật, những yếu tố thẩm mỹ - phi nghệ thuật cũng đã có tác dụng quan trọng đến nhận thức cảm tính của con người. Các bài ký báo chí, các nhật ký cá nhân, đƣợc gọi là "ký ngoài văn học", bằng những hình tƣợng thông tin cụ thể của nó, vẫn có khả năng gây xúc động rất lớn đối với người đọc. Những bài phóng sự điều tra về những vụ việc mang tính thời sự trên báo nhiều khi gây xôn xao dƣ luận, tạo nên những xung động tinh chần tình cảm trong toàn xã hội (nhƣ "Ông vua lốp", "Những kẻ ném tiền qua cửa sổ", đăng trên báo Văn nghệ, báo Tuổi trẻ). Một số trang nhật ký ngoài văn học của các chiến sĩ đã hy sinh gợi cho người sống những niềm thương tiếc không nguôi. Như đoạn Nhật ký sau đây của một đại đội trưởng vệ quốc quân tên Lê Nguyên, hy sinh ngày 20.03.1949 :
" ... Kinh nghiệm trường đời cho biết rằng không nên giải bày tâm sự mình trên trang giấy, nhưng từ khi vào bộ đội, mình có những xúc động ghê gớm cần phải ghi lại ... Trận B.T mình dẫn bộ đội đánh thốc ngang vào ... Tụi địch không biết gì cả ...
97
Đấy là lần đầu mình giữ một vai trò quan trọng trong một trận ác liệt ... Đến sát đồn, mình thấy ba thằng lính Đức tóc lật ngược trước gió đứng trên miệng hầm, bên đống lửa rừng rực, lia súng ra phía suối ...
... "Tiểu đội phó N. Đ Thản có đôi mắt một mí như Nhật vậy. Trời, sao mình yêu đôi mắt hiền và đẹp như thế ! Trận B.T lúc ấy mình chưa cho lệnh bắn. Hắn sướng quá bắn luôn một tràng thompson, thế là lũ giặc bắn như mưa... Thản bị bắn xuyên óc, chết ngồi dựa lưng vào vách đá. Hôm sau địch chạy hết, mình vào chôn cất cho Thản.
Đã có bao nhiêu đôi mắt như đôi mắt của Nguyễn Đình Thản đã nhắm ở chiến trường mà không người vuốt xuống (101: II2).
Một chiến sĩ ghi lại hình ảnh, sự kiện người bạn đã hy sinh, xong rồi anh cũng hy sinh. Và trang nhật ký đó lại tìm đƣợc trong ba lô một chiến sĩ - nhà văn Trần Đăng, cũng hy sinh luôn. Thế là, trong gang tấc, trang nhật ký ngoài văn học này trò thành nhân chứng của ba lần hy sinh ba người con ưu tú của tổ quốc.
Một tác phẩm nghệ thuật, một truyện ngắn nào đó, viết kém, làm sao có thể so sánh được với những trang ghi chép chỉ mới ở dạng phi nghệ thuật kiểu này, về cả giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mỹ. Vì vậy, giá trị thẩm mỹ giữa nghệ thuật và phi nghệ thuật cần đƣợc xem xét cụ thể trong từng tác phẩm. Mặt khác, hiện tƣợng trên càng chứng minh cho tính "mập mờ, không rõ ràng", giữa nghệ thuật và phi nghệ thuật, tiền nghệ thuật.
Ranh giới không rõ ràng dứt khoát giữa văn bản lịch sử và văn học lịch sử lƣỡng tính trong thời văn hóa nguyên hợp đƣa đến việc khó xác định loại thể của văn bản: Có nhà nghiên cứu cho rằng chỉ trừ tác phẩm của nhà sử học Thuxiđit là có tính nghiêm túc của khoa sử học, còn hầu hết các sử gia cổ Hy Lạp đều muốn làm nghệ thuật trong khi viết sử, do đó sử học hiện đại không xem tác