III. Tình hình phân loại văn học nghệ thuật theo tiêu chí chức năng và vấn đề phân
2. Trong nghiên cứu văn học
Với câu hỏi "văn học là gì, và phạm vi của văn học là ở đâu", xưa nay vẫn thường có hai cách trả lời:
* Một là, văn học là những văn phẩm có lời văn đẹp.
* Hai là, văn học là những văn phẩm thuộc các loại thuần túy nghệ thuật nhƣ thơ, truyện, kịch. Đó là lối nói giản lƣợc, theo quan niệm về loại thể, vì trả lời câu hỏi này có biết bao nhiêu cách nói khác nhau.
Hai cách trả lời trên - một quan niệm rộng và một quan niệm hẹp - sẽ thể hiện trong hai khuynh hướng lý luận. Khuynh hường rộng sẽ cho Empêđôcơlơ là nhà triết học. đồng thời là nhà thơ, khuynh hướng hẹp sẽ cho Empêđôcơlơ không phải là nhà thơ mà chỉ là nhà triết học, như quan niệm của Aritxtôt. Hai khuynh hướng này đều có lý vì có chứng minh trên thực tế sáng tác văn học và trong đời sống văn học.
Các công trình nghiên cứu - sưu tập thường đi theo quan niệm rộng về văn học: thu vào đối tƣợng nghiên cứu, giới thiệu, bình giảng tất cả các loại thể không chỉ ba loại thơ.
truyện, kịch. Về văn học, trong từ ngữ phương tây từ lâu đã có phân biệt văn thẩm mỹ, văn nghệ thuật(*) với các loại văn khác. Ở phương đông (Trung Quốc, Việt Nam) các thời đại trước chưa có khái niệm từ ngữ riêng để phân biệt hai loại nghệ thuật, hai loại văn, nhưng những quan niệm về loại và thể với đặc điểm chức năng khác nhau đã có rất sớm.
Quan niệm phân loại văn học nghệ thuật thường thể hiện trong những khảo sát từ nguyên về các từ nghệ thuật và văn học. Từ ý nghĩa ban đầu đến ý nghĩa hiện đại nhất, các từ ngữ, các khái niệm gọi tên văn học và nghệ thuật
(*) Tiếng Pháp : Belles lettres: Tiếng Nga: Khuđôjextơvennaia litêratura
41
trải qua bao lần không ngừng chuyển hóa và bổ sung nội hàm và ngoại diên của nó. Một số công trình văn học sử và lý luận văn học đã mở đầu bằng khảo sát từ văn, văn chương, văn học. Qua việc khảo sát đó, sẽ thấy các thể văn xuất hiện và đƣợc định hình nhƣ thế nào trong lịch sử. Theo dõi lịch sử ra đời và không ngừng biến hóa của từ văn và văn học trong lịch sử Trung Quốc (và phần nào cũng nhƣ Việt Nam) sẽ thấy đƣợc quan niệm của các thế hệ những nhà văn và học giả đã từng khoanh vùng và phân chia các loại văn nhƣ thế nào, đặc biệt là sự quan tâm đến ranh giới của văn nghệ thuật và văn ứng dụng. Thoạt tiên, văn, là vẻ đẹp của những hoa văn xăm mình theo tín ngưỡng hướng về thần linh; văn, là những hoa văn trên bộ lông động vật và cảnh vật thiên nhiên, đó là vẻ đẹp của đất trời, vũ trụ. về sau từ văn dùng để chỉ tất cả những tinh hoa của con người nói chung như dấu hiệu của văn minh, đến vẻ đẹp của văn hóa thể hiện nơi nhân cách của một con người (Khổng Tử khen đời Chu có văn và ông đặt tên cho người học trò giỏi giang biết khiêm nhường là Văn, và vua nhà Chu có vương hiệu là Văn vương). Nhưng ngay từ thời Khổng Tử thì văn đã được sử dụng không chỉ với nghĩa rộng nhất (văn minh, văn hóa), mà còn với nghĩa hẹp dần, là các loại văn bản, và hẹp nhất là văn tự. Trước đời Đường, một số nhà thơ và học giả tìm ra các lập luận về văn, phân lọai văn, đề cao văn của học giả, văn cung đình (Vương Sung, TK I),chia văn thành tám thể.
đề cao các thể tấu, nghị, thư, luận, mình, lỗi và đặt thi, phú (văn trữ tình; ở bậc thấp nhất (Tào Phi, TK II, III).
Ở phương đông, trong kho tàng ca dao tục ngữ cổ của Việt Nam cũng như các bộ tứ thƣ, ngũ kinh của Trung Quốc, có thể tìm thấy mọi tri thức về xã hội, tự nhiên, nghệ thuật văn chương và cả âm nhạc nữa (ca dao và Kinh thi xưa là nhữne bài thơ để hát). Tại Trung Quốc,trước Aritxtốt khoảng một thế kỷ, Khổng Tử đã nhận xét về nội dung Kinh thi như sau:
"Thơ có thể làm cho người ta phấn khởi được ý chí, biết xem xét được việc hay việc dở, biết hòa hợp với mọi người, biết bày tỏ nỗi sầu oán; gần thì biết thờ cha, xa thì biết thờ vua. lại biết đƣợc nhiều tên chim muông, cây cỏ" (Thi khả dĩ hƣng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. nhĩ chi sự phụ, viên chi sự quân, đa chí ƣ điều thú thảo mộc chi danh- Luận
42
ngữ). Nhận xét đó lộ rõ nội dung nguyên hợp, nhiều chức năng của những thơ ca dân gian cổ, và các triết gia cổ đã thừa nhận. Trong công trình lý luận văn học cổ của Trung Quốc là Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp (TK V - VI) gồm 49 thiên, trong đó có 21 thiên phân tích các thể loại văn học cổ Trung Hoa mà phần lớn các thể loại này cũng có trong văn học ở nước ta.
Trong 21 thiên, Lưu Hiệp đã để 11 thiên đầu bàn về "văn" (văn nghệ thuật) và 10 thiên bàn về "bút" (văn ứng dụng). Lưu Hiệp đã chia các thể văn (văn nghệ thuật) gồm 11 thể như sau : thơ, nhạc phủ, phú, tụng tán, chúc minh, minh châm, lũy bi, ai điếu tạp văn. hài ẩn. Và bút (văn ứng dụng) gồm 10 thể nhƣ sau : sử truyện, chƣ tử, luận thuyết, chiêu sách, hịch di, phong thiện, chương biểu, tấu khải, nghi đối, thư ký (64)(*).
Có thể xem việc xác định hai loại văn được thể hiện từ cuối thời Nam Bắc triều, trước khi mở ra thời đại văn học đời Đường, với trích lời giới thiệu tập Văn
Tuyển nổi tiếng của Tiêu Thống (một học trò của Lưu Hiệp) :
"Các sách của Lão, Trang, Quản, Mạnh có mục đích chính là đặt nền mong cho tƣ tưởng, chứ không phải có hình thức tinh diệu và sự trình bày khéo léo. Vì vậy tôi không đưa chúng vào 'văn tuyển'. Tôi cũng không tuyên các lời phát biêu, lập luận của các nhà hoạt động chính trị khác cũng như của các cố vấn, của các vương hầu, cho dù chúng có những phẩm chất đúng kỳ lạ đến đâu ... Cũng nhƣ vậy, tôi không chọn gì từ các tập sử ký và sử biên niên vì chúng không đáp ứng nhiệm vụ của tôi do chỗ chúng nhằm bao biếm thị phi, phân biệt dị đồng. Nhƣng một số
(*) Lưu Hiệp (465 - 522), với Văn tâm điêu long, được so sánh ngang với Nghệ thuật thơ ca của Aritxtốt (Lỗ Tấn), "một tác giả không thể có hai trong suốt một nghìn năm'' (Li Trang Trƣ, Lisêvich: 70 :134). "là người đầu tiên - nhà lý luận vĩ đại - ở Trung Quốc đã bắt đầu nghiên cứu thể tài văn học trong tổng thể các thuộc tính cơ bản của nó và đồng thời cả trong sự phát triển lịch sử của nó" (Lisêvích. 70 : 208). Trong Thiên Tự chi (chương kết) ở cuối sách, Lưu Hiệp đã nói về nguồn gốc của các thể tài văn chương là ở các kinh : "Núi Thái Sơn mưa khắp, sông Hoàng Hà tưới ngàn dặm. Luận, thuyết, từ tự thì lấy Kinh Dịch làm đầu: chiếu, sách, chương, tấu thì Kinh Thư là nguồn; phú, tụng, ca. tán thì Kinh Thi là gốc; minh, lũy, châm, chúc, thì Kinh Lễ tóm lại tất cả; kỷ, truyện, minh, hịch, thì kinh Xuân Thu là rễ. Theo đó thì bay cao đi xa cùng cực. Chính vì thế mà trăm nhà bay nhảy rốt cục đều ở trong vụ trụ." (71).
43
phần của chúng như những bài văn luận hoặc các đoạn ngợi ca được viết ra bằng những câu trau chuốt, và sau nữa là những đoạn trần thuật đặc biệt với một văn phong nghệ thuật thì tôi đều đưa vào “Văn tuyển” như là những bài có nội dung sâu sắc và có dụng tâm trau chuốt ngôn từ” (Tôi nhấn mạnh – L.V)” (70 : 43 )
Vậy là khi tuyển chọn, Tiêu Thống đã có ý thức phân rõ loại văn nghệ thuật và văn ứng dụng – nửa nghệ thuật (Những dòng cuối là nói về văn ứng dụng). Tóm tắt tư tưởng phân loại từ đời Đường về trước xung quanh cách hiểu thuật ngữ văn học, sách của I.S. Lisêvich viết nhƣ sau:
“… Tổng kết tất cả những điều đã nói ở trên dễ dàng thấy rằng trong suốt ba mươi thế kỷ từ Khổng Phu Tử cho tới Hàn Dũ đời Đường đã diễn ra sự thu hẹp dần thuật ngữ (văn), từ yếu tố văn minh nói chung, xuyên qua việc chỉ tất cả những gì đƣợc viết ra bằng kinh điển, triết học và lịch sử, ngôn từ trau chuốt, văn xuôi có nhịp điệu, và cuối cùng, đi đến chỉ một phong cách văn học nhất định và thể tài nhất định” (70:46).
Đến thời cận hiện đại, tại Trung Quốc vẫn tồn tại hai xu hướng về phạm vi của văn học: Xu hướng mở quá rộng, xem tất cả những văn phẩm được ghi bằng văn tự đều là văn học (Tạ Ký Lương, Tăng Nghị, Cố Thực). Tiêu biểu của xu hướng này người ta thường nhắc câu của Chương Bình Lân: “Viết lên tre, lụa thì gọi là văn, bàn đến phép tắc của nó thì gọi là văn học”. (Trước ư trúc bạch chi vị văn, luận kỳ pháp thúc vị chi văn học) (93). Xu hướng thứ hai, là thu hẹp vào các thể văn nghệ thuật. Tiêu biểu là Hồ Văn Dực, trong sách Tân trước Trung Quốc văn học sử, cho rằng văn học chỉ gồm thi ca, từ phú, từ khúc, tiểu thuyết, tản văn, tuồng, du ký mà thôi. Các loại văn triết học, kinh học, tản văn của các danh gia đều không phải là văn học. Thời kỳ sau này (những năm 50) các nhà nghiên cứu vẫn giữ quan niệm trên, nhƣng có mở rộng đƣa các tác phẩm văn ứng dụng có tính nghệ thuật (từ tứ thƣ ngũ kinh về sau) vào kho tàng văn học. Các sách văn học sử Trung Quốc đƣợc soạn tại Việt Nam cũng theo xu hướng này.(*)
(*) “Lịch sử văn học Trung Quốc”, Sở Nghiên cứu văn học thuộc Viện khoa học Trung Quốc xuất bản (Bản dịch của nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội) và các sách Lịch sử văn học Trung Quốc của nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
44
Thế kỷ XVIII, XIX, hai nhà bác học lớn là Lê Quý Đôn (1726 - 1784) và Phan Huy Chú (1782 - 1840) đã có những công trình sưu tầm biên khảo công phu giới thiệu các quan niệm văn chương và những kho tàng sách vở thư mục của nhiều đời còn để lại, qua đó ta biết đƣợc cha ông ta đã sử dụng các hình thức loại thể nhƣ thế nào.
Trong Đại Việt thông sử, chương Nghệ văn chí, Lê Quý Đôn giới thiệu 115 bộ sách, trong đó có 67 bộ thơ văn và 19 bộ truyện ký, trong di sản văn học của các thời kỳ từ "đầu Lê (trung hƣng) ngƣợc lên triều Lý".
Trong Vân đài loại ngữ, chương Văn nghệ, Lê Quý Đôn ghi 48 điều suy nghĩ của mình và những điều học được của tiền nhân về văn chương, về nghệ thuật sáng tác. Ông có giới thiệu đặc tính của các thể loại văn cổ của Trung Quốc qua ý kiến của Tào Phi, Lưu Hiệp (Điều 15, 16).
Trong bộ bách khoa Lịch triều hiến chương loại chí, mục Văn tịch chí, Phan Huy Chú dựa trên cơ sở Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn, bổ sung soạn lại một thƣ mục đồ sộ 213 bộ sách các loại. Phan Huy Chú khi viết bài tựa cho tập thơ của Lê Quý Đôn Quế đường thi tập đã có ý kiến phân tích về hai loại tư duy, hai hình thái sáng tạo là "trước thuật" và "ngâm vịnh", sáng tác hai loại văn khác nhau. Ông cho rằng Lê Quý Đôn là thiên tài hiếm hoi khi vừa là nhà thơ vừa là nhà trước thuật.
Người mở đầu làm Hợp tuyển văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX là một người Pháp, ông Etmông Norđơman, đã sưu tập những áng văn nôm cổ và các loại văn bản hành chánh (1898)(*).
(*) Edmond Nordemann: Chrestomathie annamite, Hà Nội, 1898.
45
Thời kỳ đầu thế kỷ XX, có công trình của nhà giáo người Pháp là G. Corđiê. Văn Học Việt Nam (1914)(*). Công trình biên khảo văn học đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ là của Phan Kế Bính, cuốn Việt Hán văn khảo (1915). Đây là một công trình biên soạn dịch thuật có giá tri, thể hiện một quan niệm văn học mẩu mực của một nhà nho, một học giả thuộc thế hệ giao thời. Trong tập sách này, Phan Kế Bính đã tuyển các tác phẩm thuộc nhiều loại và thể khác nhau, thuộc văn học Việt Nam và Trung Hoa: thơ, truyện ký, ký sự, nghị luận, tựa, biểu, chiếu v.v...
Những năm 20 và 30, một loạt công trình biên soạn, biên khảo đã ra đời với tên tuổi các nhà Hán học - tây học: Dương Tự Quán, Lê Thành Ý, Nguyễn Hữu Tiến. Trần Tuấn Khải, Nguyễn Văn Ngọc, Trần Trung Viên... và Bùi Kỷ.
Những năm ba mươi, cuốn Quốc văn cụ thể của Bùi Kỷ, một công trình về lý thuyết thể loại đầu tiên, đồng thời là sách giảng văn, đã giới thiệu các thể thơ văn nghệ thuật theo một quan điểm chặt chẽ về văn chương (1932).
Những năm bốn mươi có hai tác giả có công trình nghiên cứu biên khảo tiêu biểu là Dương Quảng Hàm và Vũ Ngọc Phan.
Dương Quảng Hàm (1898 - 1946) là nhà học giả, nhà tây học thông hiểu Hán học. có công đầu trong ngành văn học sử giáo khoa ở nước ta vào nửa đầu thế kỷ này. Cách nhìn toàn diện nền văn học dân tộc, kể từ văn học dân gian. văn học chữ Hán, đến các trường phái văn học hiện đại. với các loại thể văn ứng dụng và văn nghệ thuật..., đã trở thành một mô hình cho nhiều công trình văn học sử về sau(**).
Một bộ gồm hai cuốn, Việt Nam văn học sử yếu và Việt Nam Thi văn hợp
(*)G. Codier : Lirérature annamite, extraits des poètes et des prosateurs annamites. Hà Nội. 1914.
Morceaux choiSiS d' auteurs annamites. 1932
(**) Từ những năm 20 đầu thế kỷ này. có những nhà biên soạn vãn học sử đã cho ra những công trình như Vận văn bách tuyển (Dương Tự Quản. 1925), Việt Văn hợp tuyển giảng nghĩa (Lê Thành Ý. Nguyễn Hữu Tiến. 1925), Nam thi hợp tuyển, Tục ngữ phong dao (Nguyễn Văn Ngọc. 1927-1928), Việt văn dẫn giải (Trần Tuấn Khải. 1932). Văn đàn bảo giám (Trần Trung Viên, 1932)...
46
tuyển của Dương Quảng Hàm đã mở đầu loại giáo khoa văn học sử nước ta thời hiện đại, đƣợc biên soạn một cách khoa học và hoàn chỉnh, trong đó giới thiệu cả chục thế kỷ văn học nước nhà, bao gồm các văn thơ nghệ thuật và cả kinh nghĩa, văn sách, ca dao tục ngữ về phong tục, canh nông, thiên văn, thời tiết...(*)
Sách văn học Việt Nam của những người Pháp biên soạn từ cuối thế kỷ trước, đầu thế kỷ XX (E. Norđơman, G. Corđiê) và sách của Dương Quảng Hàm tiếp thu phương pháp Tây Phương, đã đưa các loại tác phẩm văn vần văn xuôi ứng dụng có tính nghệ thuật vào bên cạnh văn thơ nghệ thuật.
Nhà văn hiện đại là bộ sách 4 tập nghiên cứu và phê bình của Vũ Ngọc Phan. Có thể nói đây là bộ sách đầu tiên nghiên cứu công phu về văn học Việt Nam hiện đại, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt về phương diện hình thái học, ta thấy ở đây một quan niệm rộng rãi nhƣng chặt chẽ của tác giả về văn học và về "thế nào là nhà văn". Nhìn vào mục lục của sách, có thể thấy tác giả là người đầu tiên phân loai các thể văn viết bằng quốc ngữ có tham khảo từ nền văn học phương tây. Có mặt trong cóng trình này là hơn 70 nhà văn của 30 năm văn học thời kỳ đầu thế kỷ, mỗi nhà văn hoặc mỗi nhóm đã sử dụng một thể loai văn học khác nhau: từ biên khảo, dịch thuật, phê bình, đến các thể ký, truyện, thơ, kịch. Riêng tiểu thuyết, tác giả đã kể ra 9 loai - 9 thể tài khác nhau
Cuối những năm 50, tại Pháp, Môrix Đuyran viết công trình Văn học cổ phương đông và văn học truyền miệng, phần Văn học Việt Nam, đã tuyển tích văn thơ, tản văn cổ Việt Nam và cả tản văn của người Việt viết bằng tiếng Pháp, như Phạm Văn Kỳ, Nguyễn Tiến Lãng, Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Nhị...(**)
Sau 1954 tại Hà Nội và Sài Gòn có nhiều công trình sưu tầm biên khảo theo hướng của Dương Quảng Hàm, cũng tập hợp đủ các loại văn cổ kim như
(*)Sách văn học sử và giảng văn của Dương Quảng Hàm gồm có :
- Quốc văn trích diễm, Nghiêm Hàm xuất bản, Hà Nội 1925 (xuất bản lần 2).
- Việt văn giáo khoa thƣ. Nha học chánh. Hà Nội, 1942.
- Việt Nam văn học sử yếu. Việt Nam thi văn hợp tuyển. Nha học chánh. Hà Nội, 1944.
(**) Maurice Durand: Litérature anciennes orientales et orales, phần Litérature Vietnamienne. Paris.
1950 – 60 (M. Durand là Hội viên Học viện Đông phương bác cổ).