Khoa học và nghệ thuật - vấn đề Anhxtanh - Đôstôiepxki

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 84 - 87)

CHƯƠNG II: CHỨC NĂNG THẨM MỸ - PHI NGHỆ THUẬT

I. Nghệ thuật và phi nghệ thuật – tính thống nhất và sự phân biệt chức năng

2. Khoa học và nghệ thuật - vấn đề Anhxtanh - Đôstôiepxki

Các nhà lý luận hiện đại xem việc so sánh phân biệt hai hình thái nhận thức khoa học và nghệ thuật là một trong những trọng tâm của lý luận về đặc trƣng nghệ thuật. Giáo trình mỹ học của các trường đại học Liên Xô viết:

"Bản chất nhận thức của hình tƣợng nghệ thuật có lẽ bộc lộ rõ nhất khi đối chiếu phương thức tư duy nghệ thuật với phương thức tư duy khoa học. Đồng thời cần phân biệt phép đối chiếu một mặt là nghệ thuật và khoa học, còn mặt khác là đối chiếu sáng tạo nghệ thuật và sáng tạo khoa học." (27 : TI, 230).

Một phát hiện quan trọng của ngành sinh lý học về đặc tính chức năng của hai bán cầu não đã tạo thêm cơ sở cho những nhận định về đặc trƣng của sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật. Phát hiện này phu hợp với sự phân loại người thành ba dạng nhân cách: kiểu nghệ sĩ, kiểu bác học và kiểu nghệ sĩ - bác học,của Pavlov(*).

Tính chất phi đối xứng chức năng của hai bán cầu não là: chức năng đặc thù của bán cầu não trái là tƣ duy khái niệm - logich, tƣ duy trừu tƣợng, của bán cầu não phải là tƣ duy hình tƣợng - trực giác, cụ thể. Não trái là cơ sở của hoạt động trí tuệ, não phải là cơ sở của hoạt động tình cảm cảm xúc. Nhƣ vậy không có nghía là nhà khoa học chỉ phát triển hoạt động của não trái, nhà nghệ sĩ chỉ phát triển hoạt động của bên não phải, vì cảm xúc rất cần cho hoạt động trí tuệ, lý tính không thể thiếu trong tƣ duy hình tƣợng. Nhƣng sự phát hiện này tạo cơ sở để chứng minh những khả năng và sở trường cơ bản, những dạng tín hiệu vật chất - ngôn ngữ cơ bản được sản sinh từ sự "phân công" của não bộ con người.

Đây là sự so sánh hai hình thái ý thức, hai hình thái tƣ duy có đặc trƣng chức năng khác biệt nhau, thậm chí đối lập nhau, nhƣng đồng thời lại có quan

(*) Có các nhà nghiên cứu ngữ văn đã vận dụng cách lý giải khoa học này: Nguyễn Hàm Dương, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Văn Hạnh...

85

hệ mật thiết với nhau. Tính đối cực và tính tương liên là quan hệ biện chứng giữa hai hình thái ý thức này. Tính đối lập phản ánh quá trình "phân công" chuyên môn hóa về chức năng và nhu cầu xã hội; tính tương liên do nguồn gốc sinh thành: cả hai hình thái đều chung sống hòa thuận trong cái bào thai nguyên hợp của văn hóa cổ đại. Mặt khác, trong quá tình hoạt động, tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật luôn có quan hệ tương tác, gắn bó bổ sung hỗ trợ lẫn nhau trên con đường đi tìm chân lý, vì tiến bộ và tiến hóa chung của con người.

Nhà bác học Anhxtanh đã có lần phát biểu rằng Đôxtôiepxki đã đem lại cho ông nhiều hiểu biết hơn bất cứ một nhà khoa học nào, kể cả Gauss vốn đƣợc mệnh danh là "ông vua của toán học". Câu nói đã đƣa đến nhiều ngạc nhiên và suy nghĩ đối với cả các nhà khoa học cũng như các nghệ sĩ, và từ đó người ta tìm cách phát hiện những gì khiến cho hai thiên tài lỗi lạc thuộc hai lĩnh vực khác nhau đã có sự gặp gỡ tri âm nhƣ vậy (21.). Nhƣng không chỉ Anhxtanh trước đó vài chục năm S.Phơrơt cũng đã từng nói:

"Các nhà thơ là những bạn đồng minh vàng ngọc (của tâm lý học), cần phải nghe tiếng nói của họ, vì trong khoảng trời đất này họ đƣợc biết nhiều thứ mà những nhà thông thái ngây thơ chúng ta chẳng hề mơ thấy bao giờ. Trong sự hiểu biết tâm lý, các nhà thơ đã vượt xa chúng ta, những con người của văn xuôi, vì rằng trong khi sáng tạo họ đã khai thác đƣợc những ngọn nguồn mà chúng ta hãy còn chƣa phát hiện ra đƣợc cho khoa học."(*)

Quan hệ giữa khoa học và nghệ thuật vốn là đề tài nghiên cứu và tranh luận sôi nổi khi bước vào nửa sau cua thế kỷ XX, khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tiến như vũ bão, tác động tới đời sống, thu hút sức chú ý của hàng triệu người. Trên thế giới có những cuộc tranh luận về vai trò vị trí của khoa học và nghệ thuật, về đặc trƣng của mỗi loại, về ảnh hưởng lẫn nhau của chúng, và

(*) Chuyển trích theo Marcôv (22)

86

trung tâm của vấn đề là mối tương quan giữa tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật, mà các nhà lý luận gọi là "Vấn đề Anhxtanh - Đôxtôiepski" (21) .

Tất nhiên phạm vi của đề tài này không thể đi sâu vào một vấn đề rộng lớn và phức tạp nhƣ vậy, nhƣng vẫn có khiá cạnh đáng quan tâm trong mối quan hệ khoa học - nghệ thuật vì có những loại và thể văn học mà nội dung rất gần gũi với khoa học, người sáng tác phải đứng thăng bằng giữa hai hình thái tƣ duy vận dụng một lúc cả hai lối phản ánh của khoa học và nghệ thuật, đó là các thể văn lịch sử , các thể ký, các thể văn khoa học (Nội dung này sẽ được trình bày ở chương sau). Trong chương này, chủ yếu nói về sự khác biệt giữa thực tiễn - khoa học và sáng tác nghệ thuật, đƣợc hình dung là sự phân cực về chức năng. Văn hào Gơt đã viết:

"Khoa học và thơ ca đều là những lĩnh vực bình đẳng của sự nhận thức và sáng tạo.

Nhà khoa học lẫn nhà nghệ sĩ đều khảo sát thế giới hiện thực, đều có một mục đích chung là đạt tới chân lý, song mỗi người đều đi bằng con đường riêng của mình. Song để tránh sự đối lập với chủ nghĩa nhân đạo, khoa học cần học tập ở nghệ thuật: lúc ấy nó mới có thể thoát khỏi chủ nghĩa kinh nghiệm và điều chủ yếu nhất là nó mới có thể nắm đƣợc bản chất bên trong của các hiện tƣợng trong cuộc sống, mới hiểu đƣợc những qui luật của chúng, lúc ấy sự phân tích của nhà nghiên cứu khoa học mới không đối lập với chất thơ của sự lãnh hội hiện thực(*).

Theo nhà văn kiêm nhà vật lý học người Anh T. Snow, nhà khoa học rất cần có tư duy hình tƣợng, nếu thiếu tƣ duy hình tƣợng, không thể có đƣợc sự sáng tạo trong khoa học.

Những ý kiến này T. Snow viết trong cuốn sách xuất bản ở Luân Đôn năm 1959 : "Hai nền văn hóa và cuộc cách mạng khoa học". Cuốn sách ra đời đã từng gây một cuộc tranh luận ở phương tây, về vai trò khinh trọng của nghệ thuật trong thời đại khoa học kỹ thuật.

(*) Trên ranh giới giữa khoa học và nghệ thuật (Hoàng Ngọc Hiến dịch). (21)

87

Phân biệt cách sáng tạo của nhà khoa học và nghệ sĩ, người ta thường nhắc đến lời nhận xét của Bêlinxki, tuy lối so sánh có phần đơn giản:

"Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà thơ nói bằng các hình tƣợng, và bức tranh,... Nhà kinh tế chính tri đƣợc vũ trang bằng các số liệu thống kê, dùng chứng minh để tác động tới trí tuệ của người đọc và người nghe... Nhà thơ, được vũ trang bằng sự miêu tả sống động và rõ nét, tác động đến trí tưởng tượng của bạn đọc bằng cách trình bày hiện thực trong một bức tranh chân thực... Một người chứng minh, một người trình bày, và cả hai đều thuyết phục, chỉ có khác là một đằng thì bằng các kết luận lôgic, một đằng bằng các bức tranh" (48 : TI, 50).

Tạm chia câu nói của Bêlinxki theo ba khâu suy luận nói trên:

Sinh thành Cấu trúc Chức năng

Khoa học: chứng minh để thuyết phục.

• Tam đoạn luận.

• Kết luận lôgic.

• Tác động đến trí tuệ.

Nghệ thuật: Trình bày miêu tả sống động để thuyết phục

• Hình tƣợng.

• Bức tranh.

• Tác động đến trí tưởng tƣợng.

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 84 - 87)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(238 trang)