CHƯƠNG III: CHỨC NĂNG THẨM MỸ - NGHỆ THUẬT
II. Những quy luật đặc trƣng và cơ chế của tâm lý sáng tạo
3. Quy luật tưởng tượng - hư cấu
Không phải trình bày về tâm lý sáng tạo, lao động sáng tạo, đây chỉ nhằm nêu một trong những quy luật tất yếu, của sự sinh thành tác phẩm nghệ thuật đơn tính :
"....Nhờ tưởng tượng, nghệ thuật còn đi xa hơn (những hình ảnh của tự nhiên) và rút từ trong trí tưởng tượng sáng tạo ra những sáng tác vô tận của mình. Đứng trước sự phong phú vô biên của trí tưởng tượng và các sáng tác tự do của trí tưởng tượng, tư tưởng dường nhƣ mất dũng khí và sẵn sàng từ bỏ cái tham vọng giải thích các hình tƣợng (Hegei, 14: 1A, 9).
Tưởng tượng là một thuộc tính tâm lý của con người, nhưng tưởng tượng với tính cách một khâu quyết định của tƣ duy nghệ thuật, thì gắn liền với hƣ cấu nghệ thuật.
Tưởng tượng nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của hầu hết những công trình tâm lý nghệ thuật và lao động sáng tác. Trong công trình của mình Arnauđôv đã dành cả hai chương bàn về "tưởng tượng", với hơn trăm trang, chiếm 1/6 cuốn sách. Công trình Tâm lý văn nghệ của Chu Quang Tiềm chỉ đề cập đến tưởng tượng sáng tạo trong văn chương bác học, còn Arnauđôv đã phân tích cặn kẽ yếu tố tưởng tượng qua suốt quá trình lịch sử văn học của loài người, từ giai đoạn ''đầu tiên" và "thấp nhất" của truyện cổ hoang đường đến "chủ nghĩa hiện thực huyễn tưởng", "chủ nghĩa tượng trưng", trong những sáng tác hiện đại, qua mỗi chặng, mỗi hình thái của tưởng tượng, ông có sự phân tích lý giải thật sâu sắc.
Sự quan tâm có ý nghĩa hình thái học về tưởng tượng nghệ thuật là: ở các hình thức nghệ thuật lưỡng tính như thần thoại, cổ tích, hình ảnh tưởng tượng nhằm minh họa cho những quan niệm về nhân sinh, vũ trụ, những lý tưởng về xã hội và đạo đức. Theo Arnauđôv,
"truyện hoang đường không hề biết đến các tính cách" "các tính cách đều tĩnh tại"... Với nghệ thuật đơn tính, trong thơ trữ tình và
148
tiểu thuyết, cả tiểu thuyết của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, tưởng tượng hệ thuật đã trải qua hàng nghìn năm kinh nghiệm, trở thành một hình thái của tƣ duy nghệ thuật mang tính tổng hợp, của tình cảm và lý trí, bản năng và trí tuệ, thực tiễn và ƣớc mơ, khát vọng..., đó là hình thái tâm lý thể hiện đầy đủ nhất của tính sáng tạo trong nghệ thuật.
Tưởng tượng sáng tạo tất yếu dẫn đến hư cấu nghệ thuật(*). Khái niệm hư cấu trong nghệ thuật lƣỡng tính (văn học lịch sử, thể ký) luôn đƣợc bàn bạc, tranh luận, nhƣng trong nghệ thuật đơn tính là một hiển nhiên không có gì phải bàn(**).. Nhƣng với quy luật cổ tính hiểu nhiên này, vẫn cần xác định đặc điểm cơ bản của hƣ cấu trong NTĐT là gì, và chỗ phân biệt với hƣ cấu trong NTLT nhƣ thế nào.
Như đã nói, tưởng tượng hư cấu là quy luật ở cấp 3, chịu sự chi phối của hai quy luật trước đó : quy luật chủ thể hóa nghệ thuật và quy luật tình cảm - cảm xúc. Trong các thể ký, các truyện sử, hƣ cấu chỉ thực hiện ở mức độ hạn chế, và chủ yếu vẫn là hƣ cấu - kỹ thuật (thiên về sắp xếp, chọn lọc sự kiện, tình tiết). Trong truyện ngụ ngôn, những hình ảnh ví von cũng chỉ là những phương tiện kỹ thuật nhằm minh họa cho quan niệm luân lý, triết lý. Trong lúc đó, hƣ cấu của nghệ thuật đơn tính xuất phát từ động lực tình cảm, là những phát tiết từ nội tâm, từ nhu cầu tự bộc lộ của nghệ sĩ. Một câu nói của Putskin được nhiều người nhắc lại,tỏ rõ điều đó : "Vì một hư cấu mà tôi rơi nước mắt". Hư cấu trong NTLT thiên về những thao tác kỹ thuật, hƣ cấu trong NTĐT là một hệ quả của những quá trình tâm lý - tình cảm, thuộc vô thức và hữu thức, là sự huy động cả guồng máy tâm thế nghệ thuật.
(*)"Tưởng tượng nghệ thuật là khả năng và cũng là chính bản thân quá trình và kết quả của việc xây dựng các hình tƣợng nghệ thuật".
"Hư cấu nghệ thuật là quá trình và kết quả sự hoạt động sáng tạo của trí tưởng nghệ sĩ".
Từ điển thuật ngữ mỹ học, chủ biên: M.Ôvxiannhicôv và Razumnƣi Matxcơva, 1964. tr. 42, 44.
(**) Xem tài liệu về cuộc tranh luận trên tạp chí Văn học năm 1996 - 1997 về thể ký với vấn đề hƣ cấu, trong Chương IV. mục II, 2.
149
Các thể văn lịch sử, ký nghệ thuật không thể không bám chặt mảnh đất hiện thực, khó có thể tránh đƣợc tính sao chép và mô phỏng cái có thật. Nhƣng thơ văn thuộc NTĐT nhờ có tưởng tượng sáng tạo, thoát hẳn được những mô phỏng và sao chép, đúng như Ôxcơ Oaiđơ (Oscar Wide) nói: "Nghệ thuật chỉ bắt đầu khi sự mô phỏng chấm dứt".
Chu Quang Tiềm cho rằng tưởng tượng sáng tạo gồm ba yếu tố: lý trí, tình cảm và tiềm thức. Hêgel đã từng nhấn mạnh vai trò của tình cảm, bản năng... những yếu tố làm nên thiên tài, thể hiện trong hoạt động tưởng tượng và hư cấu nghệ thuật, Hêgel cho rằng hư cấu trong khoa học khác trong nghệ thuật vì nó "không xuất hiện với tính cách một cái gì bẩm sinh, mà chính lại thoát ly khỏi mọi hoạt động bẩm sinh". Hƣ cấu nghệ thuật: "Bên cạnh những nét có tính chất trí tuệ nó còn mang tính chất một hoạt động bản năng, bởi những nét chủ yếu của tác phẩm nghệ thuật là tính tình hình tượng và tính cảm quan đều cần phải có mặt ở trong nghệ sĩ với tính cách những mầm mống bẩm sinh và những ham muốn". (14:
TIA, 59).
Vì sao cùng miêu tả cuộc đời nàng Kiều, nhƣng Nguyễn Du đã không lặp nguyên lại cách thể hiện của Thanh Tâm Tài Nhân. Những thêm, bớt, tô đậm, xóa mờ của Nguyễn Du không phải là thao tác kỹ thuật, mà đều từ trong tiềm thức, từ trong tình cảm. "Tuyển chọn hay vất bỏ đều dựa vào lòng ưa thích hay ghét bỏ, mà sự ưa thích hay ghét bỏ là sự bộc lộ của tình cảm" (Chu Quang Tiềm, 32 : 303). Miêu tả chàng Kim Trọng hào hoa phong nhã rất mực, không nhƣ nguyên bản, miêu tả nàng Kiều cƣ xử với Thúc Sinh đầy tình nghĩa, với Hoạn Thƣ rất rộng lƣợng, cũng không nhƣ nguyên bản, không phải là ngẫu nhiên. Những xúc động trữ tình làm nên những câu thơ hay nhất đều là sáng tác hoàn toàn của Nguyễn Du, không có liên hệ gì đến Kim Vân Kiều truyện…(*) Vậy tưởng tượng - hư cấu là sở trường không phải của bất kỳ ai, mà là của những thiên tài.
(*)Xem những đoạn thơ đƣợc đánh dấu trong "Truyện Kiều đối chiếu" của Phạm Đan Quế, Nxb Hà Nội, 1991.
150
Hư cấu của người chưa phải là nghệ sĩ khác với nghệ sĩ là ở đây, đúng như Hêgel đã nói:
"Còn hư cấu sáng tạo của một nghệ sĩ là một hư cấu của con người có trí tuệ to lớn và có con tim lớn; nó nắm lấy và tạo ra những biểu tƣợng và những hình ảnh bằng cách bộc lộ những hứng thú sâu sắc nhất và phổ biến của con người trong một sự thể hiện cảm quan hoàn toàn cụ thể đầy hình tƣợng. (14; 1A, 59)."
Hƣ cấu là giai đoạn cuối cùng của sự vận động toàn guồng máy tâm lý sáng tạo. Có thể hình dung hƣ cấu là cái lò luyện đan, đầu vào là mọi chất liệu vật liệu của sự sống gắn bó với đời nghệ sĩ, đầu ra là những hình tƣợng - tác phẩm, là những viên ngọc. Hình ảnh "cái lò"
đã đƣợc Batkhtin miêu tả trong "Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki". Công trình này là sự nghiên cứu con đường hư cấu nghệ thuật đầy phong phú phức tạp, con đường huy động toàn bộ guồng máy tâm lý sáng tạo của nhà nghệ sĩ vĩ đại, cuối cùng đã sản sinh ra loại tiểu thuyết phức điệu: Đôxtôiepxki. Việc nghiên cứu thi pháp Đôxtôiepxki về tiểu thuyết đã góp phần đưa tên tuổi Bakhtin lên đỉnh cao của tư tưởng mỹ học hiện đại, nhưng ông cũng không ngần ngại trích dẫn hàng trang về kiến giải của người đi trước ông - L. Grôxman, "người sáng lập ra việc nghiên cứu thi pháp Đôxtôiepxki”(*). L. Grôxman viết về sự hƣ cấu nghệ thuật của Đôxtôiepxki : "Ông mạnh dạn ném vào lò nung của mình tất cả mọi yếu tố mới lạ, biết và tin rằng với độ nóng của sự sáng tạo thì các thứ nguyên liệu xương xẩu của hiện thực đời thường, những vụ giật gân đường phố và những trang khải thị của thiên chúa ở các sách thánh sẽ tan chảy ra, dung hợp nhau thành một thành phần mới, và đều mang dấu ấn sâu sắc của phong cách và giọng điệu của cá nhân ông”(**).
Hư cấu nghệ thuật - ấy là thao tác nghề nghiệp của người nghệ sĩ, là "lò cừ nung nấu sự đời", không có nó thì không thành nghệ thuật.
(*) M. Bakhtin: Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục, tr. 20.
(**) M. Bakhtin trích, trong sách trên, trang 21.