Trong nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 33 - 40)

III. Tình hình phân loại văn học nghệ thuật theo tiêu chí chức năng và vấn đề phân

1. Trong nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật

Nhìn chung, về phạm vi của nghệ thuật, đường biên giới lãnh thổ phân biệt nghệ thuật và phi nghệ thuật, văn học và phi văn học, trong công việc sưu tập, biên khảo và cả lý luận đều tương đối có sự thống nhất: một đường biên giới rộng. Nghệ thuật thì bắt đầu từ kiến trúc, thủ công mỹ nghệ cho đến hội họa, âm nhạc; văn học thì từ ký, chính luận cho đến thơ, tiểu thuyết..

Hầu nhƣ tất cả các bộ Bách khoa toàn thƣ về nghệ thuật tạo hình trên thế giới đều đƣa vào toàn bộ nền văn hóa tạo hình của dân tộc và thời đại mà người ta tuyển chọn, từ kiến trúc, thủ công mỹ nghệ đến điêu khắc hội họa. Quan điểm này cũng thể hiện rõ trong hoạt động bảo tàng về mỹ thuật của các nước cũng như Việt Nam.

34

Sự ra đời của các hình thức văn học nghệ thuật là do nhu cầu của đời sống, của hoạt động thực tiễn, đặc biệt do nhu cầu của đời sống tình cảm. Xã hội càng phát triển, các hình thức, các thể loại càng phong phú. Nhƣng không phải ở đâu có văn hóa nghệ thuật phát triển là ở đó có sự phát triển của tư tưởng phân loại. Khoa học phân loại thường ra đời muộn vì phải chờ đợi để thừa hưởng thành tựu của các khoa học khác. Hình thái học của văn học nghệ thuật chỉ có đƣợc trong điều kiện chín muồi của những quan niệm về mỹ học và của sự thực hành phân loại qua các hoạt động sưu tầm biên soạn, nghiên cứu, phê bình.

Trong những tài liệu ghi tên các nghệ thuật thời cổ đại và trung đại của Hy Lạp và La Mã người ta thấy có cả ngữ pháp và từ chương học, biện chứng pháp, số học, hình học, thiên văn, bên cạnh âm nhạc và thơ. Và trong những tài liệu đó đã thấy có phân chia hai loại nghệ thuật kỹ thuật nghệ thuật thẩm mỹ. Bản trường ca của Lukrêxiút Bàn về bản chất của sự vật, có phân biệt hai lĩnh vực hoạt động của con người theo đuổi hai mục đích khác nhau : mục đích vụ lợi và mục đích khoái cảm. Loai thứ nhất có việc đóng tàu, làm ruộng, làm võ khí, áo quần... Loại thứ hai là tất cả những gì đem tới lạc thú, nhƣ hội họa, thơ ca, điêu khắc...

Thời trung cổ hai loại nghệ thuật này cũng đƣợc phân biệt với hai tên gọi là nghệ thuật tự do nghệ thuật máy móc. (17)

Khoa hình thái học nghệ thuật phát triển lên đến đỉnh cao có thể nói là vào giữa thế kỷ XVIII. Cùng trong một vài thập niên 40 và 50 của thế kỷ này, đồng thời với sự ra đời cuốn sách M ỹ học đầu tiên khai sinh ngành mỹ học, của Baumgácten, đã có một số công trình về hình thái học nghệ thuật có giá trị, nhƣ s. Báttơ (Pháp), M.Menđenxơn, I. Hécđe, V. Krúc (Đức).

Thành tựu quan trọng nhất của các công trình nghiên cứu giai đoạn này là có cái nhìn toàn cục đối với cả hệ thống nghệ thuật, xác định đặc trƣng loại hình và nhóm loại hình, xác lập đƣợc bảng phân loại nghệ thuật một cách hoàn chỉnh.

Trong tác phẩm Nghệ thuật được quy về một nguyên l ý duy nhất (1746).

35

Báttơ đã đạt tới tất cả các tiêu chí cần thiết để phân loại nghệ thuật, trong đó có hệ tiêu chí chức năng, và theo Kagan: "Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng mỹ học thế giới đã nêu lên rằng, một mặt nghệ thuật hùng biện, và mặt khác kiến trúc đều thuộc nghệ thuật, nhưng đều tách riêng ra, vì chúng có một bản chất hai mặt vừa ích dụng vừa thẩm mỹ. Chúng có thể được so sánh ở trong hệ thống các nghệ thuật" (17 : 80)

Người đầu tiên đưa cặp tiêu chí chức năng vào đúng vị trị của nó trong bảng phân loại nghệ thuật là Vinhem Krúc. Bên cạnh những tiêu chí tâm lý, bản thể, ông đã đặt tên cho cặp tiêu chí chức năng là Nghệ thuật tuyệt đối hay thuần túy và nghệ thuật tương đối hay ứng dụng. Trong cuốn Bách khoa toàn thư có hệ thống về các nghệ thuật (1752) V. Krúc đã chia nghệ thuật thành hai hệ thống. Lần đầu tiên cặp tiêu chí chức năng đƣợc sử dụng để tách tất cả các loại hình thành thế lƣỡng phân với hai tính năng khác nhau. Thí dụ :

Chia văn học thành hai loại : thơ ca - hùng biện - mỹ thuật - : hội họa - kiến trúc

- NT múa - : múa - đấu kiếm

Một nhận định quan trọng của Kruc là, nghệ thuật tuyệt đối hay thuần túy là một hệ thống khép kín hoàn mỹ, nghệ thuật tương đối hay ứng dụng là một tập hợp vô hạn. Thời của Kruc chƣa có sự phát triển của kỹ thuật nghe nhìn nhƣ hiện nay, chƣa có nền mỹ thuật công nghiệp lớn mạnh nhƣ thế kỷ này, để có thêm vô số những kiểu dạng mỹ thuật phục vụ con người, để thấy rằng khái niệm tập hợp vô hạn ấy là một nhận định, đồng thời là một dự báo chính xác. Mặt khác, từ hàng nghìn năm, trừ điện ảnh là nghệ thuật thứ bảy, hệ thống nghệ thuật tuyệt đối vẫn khép kín nhƣ vậy.

Một nhận định khác, cũng rất đáng lưu ý, và cũng mang tính dự báo, là sự phân chia nghệ thuật thẩm mỹ và nghệ thuật ứng dụng tạo ra thế lƣỡng phân trong cả hệ thống nghệ thuật, không chỉ xảy ra trong lĩnh vực các nghệ thuật tạo

36

hình mà còn cả ở trong tất cả các lĩnh vực khác bởi vì "khả năng mỹ học của tinh thần con người tác động ở khắp nơi" (17, 82). Điều dự báo này đã ứng nghiệm vì đến hôm nay, hơn hai trăm năm sau Krúc người ta bắt đầu đưa khái niệm "tương đối hay ứng dụng" vào lĩnh vực văn học cũng nhƣ ông đã làm.

Gọi những thành tựu của khoa hình thái học hồi giữa thế kỷ XVIII này là đỉnh cao, ngoài ý nghĩa mỹ học và nghệ thuật học,còn có ý nghĩa về quan điểm triết học : tinh thần dân chủ trong việc phân chia xếp loại nghệ thuật, gạt bỏ quan điểm tôn ty đẳng cấp trong nghệ thuật.

Các xu hướng nghiên cứu:

Về vai trò của hai loai nghệ thuật lưỡng tính và đơn tính, có ba xu hướng nghiên cứu chủ yếu sau đây :

Phân biệt tôn ty: nghệ thuật cao, nghệ thuật thấp

Xuất phát từ những lập trường khác nhau, hoặc tư tưởng duy tâm, hoặc khuynh hướng lãng mạn, hoặc quan điểm duy văn học, từ khi có sự phân chia các nghệ thuật đến nay, vẫn tồn tại dai dẳng thái độ phân biệt nghệ thuật cao nghệ thuật thấp. Mức độ khác nhau, nhưng xu hướng này thể hiện trong mỹ học từ trung thế kỷ cho đến những nhà mỹ học lớn Hêgel, Bêlinxki, Secnƣsepxki. Quan điểm phổ biến là xếp thang bậc, đặt kiến trúc và các nghệ thuật ứng dụng ở bậc thấp nhất, văn học đƣợc đứng ở bậc thang cao nhất. Lý do là, chỉ có văn học mới có khả năng thể hiện cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống tình thần, một cách đầy đủ nhất. Tuy có những lý do khác nhau, coi tinh thần cao hơn vật chất (mỹ học duy tâm và lãng mạn) coi văn học là cao vì nó trực tiếp tham gia đấu tranh tư tưởng có hiệu quả (mỹ học dân chủ cách mạng), nhƣng hiệu quả là tạo ra thứ bậc tôn ty trong các nghệ thuật.

37

Xóa nhòa ranh giới giữa hai loại nghệ thuật:

Một là, đề cao một cách cực đoan những hình thức thẩm mỹ trong đời sống và coi nhẹ những sáng tác nghệ thuật. Trong thế kỷ trước, đã có những nhà mỹ học như L.Lemke với tác phẩm "Mỹ học phổ cập", V. Tappenpét với tác phẩm Tôn giáo của cái đẹp, tuyệt đối hóa

"tính trật tự thẩm mỹ" trong đời sống con người, xem nó cần thiết "như bánh mì trong đời sống". Điều đó cũng có lý nhƣng đến lúc cho rằng " có thể thiếu âm nhạc, hội họa, nhƣng không thể thiếu tính trật tự thẩm mỹ", thì rơi vào lập trường cực đoan. (17)

Hai là, như nhà Mỹ học Mỹ đương đại Tômát Manrô, đã liệt kê hàng trăm loại nghệ thuật, trong đó các nghệ thuật nấu ăn, in ấn, làm nhạc cụ, làm hương liệu... được xếp chung ngang hàng với văn chương, âm nhạc, hội họa.

Ba là, mức độ phổ biến nhất hiện nay, trong mỹ học và lý luận văn học : chỉ trừ một vài tác giả, còn hầu hết những công trình và tài liệu mỹ học và lý luận văn học trong và ngoài nước hiện nay đều xếp hai loai nghệ thuật này cùng chung một danh mục không chia thành hai nhóm, hai hệ thống. Xu hướng này cũng chỉ nêu ra một số loai hình nghệ thuật nhất định nhƣ kiến trúc, mỹ nghệ là nghệ thuật lƣỡng tính, trong văn học cũng chỉ có ký và luận, không phân chia ngay trong lòng nghệ thuật khác nhƣ trong hội họa âm nhạc; văn học là trong tự sự và trữ tình, thành hai loại lƣỡng tính và đơn tính.

Với các xu hướng trên, trường hợp Secnưsepxki là đặc biệt: xuất phát từ lập trường chống chủ nghĩa duy tâm triết học, ông theo luận điểm "cái đẹp là cuộc sống", đã xem những yếu tố thẩm mỹ phi nghệ thuật là cao hơn nghệ thuật, mặt khác lại co hẹp nghệ thuật vào phạm vi phi vật chất, tôn vinh nghệ thuật ngôn từ là cao nhất. Ông viết: "Sức mạnh của "trí tưởng tượng sáng tạo" rất là có hạn". Chúng ta không thể tưởng tượng ra cái gì đó có cường độ hơn là cái chúng ta đã nhìn và cảm thấy"; "vẻ đẹp của một pho tƣợng không thể vƣợt hơn

38

vẻ đẹp của một con người đang sống, vì rằng ảnh chụp không thể đẹp hơn được người" (30, 107). Chỗ khác, khi đề cập đến kiến trúc, ông nói, : "dù thế nào đi nữa, chúng ta không đƣợc phép gọi những sản phẩm của kiến trúc là tác phẩm nghệ thuật - kiến trúc là một trong các ngành hoạt động thực tiễn của con người". Và ông nói về thi ca - tức văn học - "Về nội dung, thi ca hơn hẳn các nghệ thuật khác, những nghệ thuật khác không có năng lực nói với chúng ta dù là một phần trăm cái mà thi ca nói với chúng ta". Nhƣng với một quan điểm nhất quán

"cái đẹp là cuộc sống", ông cho rằng các nghệ thuật khác với hình thức cảm tính gần với sự sống, sẽ có tác động mạnh mẽ hơn thi ca (nhƣ âm nhạc, hội họa)

Tuy có quan niệm "duy văn học" nhƣng Secnƣsepxki đã chứng tỏ có một quan niệm chặt chẽ về đặc trƣng của nghệ thuật, khi ông xem kiến trúc chỉ là một họat động thẩm mỹ.

(Về kiến trúc, Hêgel xem là "tiền nghệ thuật", Bêlinxki xem là "bước đầu tiên đi đến nghệ thuật").

Quan niệm chia nghệ thuật thành 2 hệ thống

Quan niệm khá triệt để phải kể ngay từ Aritxtôt, khi ông cho rằng "Hômer là nhà thơ, còn Empêđôcơlơ là nhà triết học", mặc dù Empêđôcơlơ viết triết học bằng văn vần và mọi người có "thói quen" coi ông là nhà thơ. Đó là thời văn triết bất phân, nên thói quen đó không phải là không có lý. Cho đến hiện nay, nhiều tài liệu vẫn gọi Empêđôcơlơ là nhà triết học và nhà thơ. Việc tách thơ trữ tình, tức thơ đơn tính, ra khỏi lĩnh vực thơ nói chung, là một quan điểm hình thái học rất tiên tiến trong bối cảnh nghệ thuật cổ đại.

Đến giữa thế kỷ XVIII, bảng phân loai của Vilhem Kruc đã chia đôi nghệ thuật thành 2 hệ thống :

 Các nghệ thuật tương đối hay ứng dụng: Những nghệ thuật "nhằm mục đích thực tế" nhƣ hùng biện, kiến ƣúc, mỹ thuật chữ viết, đấu kiếm, cƣỡi ngựa...

39

 Các nghệ thuật tuyệt đối hay thuần túy: Đó là những nghệ thuật mà ở đấy "sự sáng tạo là tự do và có mục đích thẩm mỹ thuần túy", nhƣ thơ, nhạc, vũ, điêu khắc, hội họa.

Và theo Kruc hình thức lƣỡng phân này không loại trừ một nghệ thuật nào, kể cả văn học. Hiện nay, trong mỹ học và lý luận văn học vẫn chƣa có đƣợc quan niệm triệt để này của nhà mỹ học Đức thế kỷ XVIII.

Mỹ học Nga hiện đại có M. Kagan đã kế thừa đƣợc và nâng lên một trình độ thực sự khoa học trong sự phân chia hai hệ thống nghệ thuật, theo Kagan, việc phân chia nghệ thuật thành 2 chức năng và một chức năng "phải đƣợc xem là một trong những nguyên tắc cơ bản của hình thái học nghệ thuật". ..."Đó là hai phương thức cần thiết của họat động sáng tạo nghệ thuật, về nguyên tắc là bình đẳng có giá trị nhƣ nhau, và cần thiết nhƣ nhau đối với con người. Vì vậy, không thể nào đồng hóa chúng, cũng như, không thể nào tách cái này hòan tòan ra khỏi cái kia. (17, 105)

Ngành mỹ học Liên Xô cũ có nhiều tác phẩm mỹ học đại cương có mục Các loại hình nghệ thuật nhưng rất ít trường hợp giải quyết triệt để vấn đề hai hệ thống nghệ thuật, ngay cả hai công trình tập thể của đại học Mạc Tư Khoa và cuốn sách Mỹ học nhiều người biết của Bôrev,vấn đề này cũng không nhắc nhở tới. Nói chung, ý tưởng về hai tính năng chỉ được phân tích trong từng nghệ thuật riêng lẻ, không phân tích như một nguyên tắc phân loại nghệ thuật như Kagan và như trường hợp sau đây. Đó là cuốn sách Mỹ học Mác - Lênin của hai tác giả I.A. Lukin và V.C. Xcachersiccôv (25), đã đề cập đến vấn đề này nhƣ sau: "Một cách phân chia rất quan trọng là chia nghệ thuật ra thành các loại hình "ứng dụng" hay "có công dụng thực tế" và các loại hình "thuần túy", hoặc đôi khi người ta còn gọi là "nghệ thuật đẹp".

Nguyên tắc phân chia này gắn liền với quan niệm coi nghệ thuật như một hình thức thực tiễn của con người". Tác giả cũng có nhận định nhƣ Kruc và Kagan: "Sự phân chia nghệ thuật thành hai loại "thuần túy" và "ứng dụng" trong một chừng mực nhất định là có ngay ở bên trong mỗi

40

loại hình nghệ thuật. ở một số loại hình nghệ thuật vẫn quen được coi là "thuần túy" (thơ ca.

âm nhạc. hội họa, điêu khắc. v.v...) vẫn thường có thể có cả mặt ứng dụng, có ý nghĩa công dụng thực tế". Sau đó tác giả lấy thí dụ về hình thức ứng dụng, (thí dụ : nhạc nhảy, nhạc hành quân, nhạc nghi lễ) (25, 168).

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 33 - 40)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(238 trang)