CHƯƠNG III: CHỨC NĂNG THẨM MỸ - NGHỆ THUẬT
III. Đặc trƣng về cấu trúc của tác phẩm nghệ thuật đơn tính
2. Tác phẩm NTĐT - một chỉnh thể thống nhất, toàn vẹn, hài hòa
"Nhiệm vụ của nghệ thuật là phải điều hòa hai mặt (nội dung và hình thức) kết hợp thành một chỉnh thể tự do, hòa hợp lẫn nhau" (Hêgel, 14 : T1, 99).
Như đã nói, tư tưởng về mối quan hệ nội dung và hình thức là tư tưởng cơ bản, phương pháp luận cơ bản mà Hêgel dùng để phân loại nghệ thuật, trước hết là tiền nghệ thuật và nghệ thuật, nghệ thuật tƣợng trƣng và nghệ thuật cổ điển.
Để ứng dụng tư tưởng đó vào việc phân biệt cấu trúc của NTĐT và NTLT. trước hết vẫn là xem xét tính mục đích của nghệ thuật, chức năng nghệ thuật. Hêgel nhiều lần nhấn mạnh: nghệ thuật (NTĐT) có "mục đích tự thân", "mục đích cuối cùng của nó ở ngay bản thân nghệ thuật" (1A, 74) Hêgel phê phán quan niệm biến nghệ thuật thành một công cụ, một phương tiện cho những mục đích không phải là nghệ thuật(**) (T1: 74,75).
Một quan niệm chƣa hợp lý khi so sánh nghệ thuật với khoa học và triết học là, chỉ thấy sự khác nhau về mặt hình thức ("nhà triết học nói bằng tam đoạn
(*) Theo quan niệm duy tâm, Hêgel vẫn cho nội dung của nghệ thuật là "ý niệm" tinh thần", nhƣng cũng có những trường hợp Hêgel dùng khái niệm "tư tưởng" gồm "tình cảm, tâm hồn… " như đã nói trên.
(**) "Nếu như chúng ta còn nói về mục đích cuối cùng của nghệ thuật thì trước hết phải gạt bỏ cái quan niệm cho rằng mục đích của nghệ thuật đồng nghĩa với vấn đề công dụng của nó. Tính chất sai lầm của quan điểm nay tóm lại là ở chỗ nó cho rằng nghệ thuật cần phải tương ứng với một cái gì khác, cái ấy mới là cốt tử....
tác phẩm nghệ thuật chỉ đƣợc xem là một công cụ hữu ích để thể hiện cái mục đích độc lập này, một mục đích nằm ở ngoài mục đích nghệ thuật". (14 : IA, 80).
154
luận, nhà thơ nói bằng hình tƣợng và những bức tranh, nhưng cả hai đều nói về cùng một nội dung - Bêlinxky - LV nhấn mạnh)
"Vậy nên văn học có khác triết học và khoa học thì cũng không phải là từ trong nội dung, chỗ phân biệt chỉ ở trong hình thức và lĩnh vực mỗi bộ môn khoa học mà thôi" (Đặng Thai Mai, 46 : 24, LV nhấn mạnh).
Và, Hêgel có một quan niệm rất gần với quan niệm hiện đại về mục đích chức năng của nghệ thuật "mục đích cuối cùng của nghệ thuật là biểu hiện và phát hiện. Sở dĩ như vậy là vì những mục đích khác thí dụ giáo huấn, làm cho tình cảm trong sạch, sửa chữa, kiếm tiền... đều không có quan hệ gì với tác phẩm nghệ thuật". (14 : 1A, 80).
“Người ta cho rằng nghệ thuật có mục đích thức tỉnh mọi tình cảm.
Nghệ thuật cần phải đem đến cho tình cảm và sự chiêm ngưỡng, sự thưởng thức tính chất huy hoàng của cái cao thượng, của cái vĩnh viễn và cái chân thực đồng thời thưởng thức tất cả những cái gì chủ yếu và cao quý mà tinh thần có đƣợc ở trong tƣ duy và trong ý niệm.
Và cũng như vậy nghệ thuật có nhiệm vụ làm cho người ta nhận thức được bất hạnh và tai họa, cái ác và tội lỗi, cũng nhƣ biết đƣợc tất cả những điều kinh khủng và xấu xa cũng nhƣ mọi khoái cảm và hạnh phúc và cuối cùng, nghệ thuật có một nhiệm vụ cấp một phạm vi đầy đủ cho hư cấu, cho trò chơi nhàn rỗi của trí tưởng tượng, để cho chúng ta có thể tha hồ tận hưởng sức quyến rũ của những hình ảnh cảm quan làm chúng ta ngây ngất vì những cảm giác. Nghệ thuật cần phải làm chủ cái nội dung phong phú bao gồm mọi mặt này để bổ sung cho kinh nghiệm tự nhiên của sự tồn tại bên ngoài của ta và gây ở ta những dục vọng đã nói trên để cho chúng ta cảm thấy các thể nghiệm tinh thần này và có đƣợc sức cảm thụ mẫn nhuệ đối với tất cả mọi hiện tƣợng.” (14 : 1A, 67).
155
" Thơ có nhiệm vụ cấp cho ta một thế giới toàn vẹn bằng cách biểu lộ cái bản chất thâm trầm của thế giới..". (Hêgel, 14 : T IV B, 96 - LV nhấn mạnh).
Mục đích của nghệ thuật quy định nội dung của nó, nên Hêgel vẫn nhấn mạnh "nội dung của nghệ thuật không đƣợc trừu tƣợng" (IA : 100). Và nhiều lần Hêgel nhấn mạnh sự hòa hợp, sự thống nhất hữu cơ giữa nội dung và hình thức của nghệ thuật. Hình thức và nội dung "phải là nguyên nhân và kết quả của nhau", "không trở thành xa lạ với nhau" (1A : 74) phải "làm cho nội dung và hình thức nghệ thuật thâm nhập vào nhau"" (1A : l01) đó là "tính thống nhất bên trong", cũng là "trình độ cao" "trình độ ƣu tú" mà tác phẩm và nghệ sĩ đạt đƣợc (1A : 103). Trong khi đó, những tác phẩm, sản phẩm của nghệ thuật tƣợng trƣng, của tiền nghệ thuật, không bao giờ đạt đƣợc sự thống nhất đó, vì nội dung là mục đích, hình thức là phương tiện (như kiến trúc, ngụ ngôn, văn hùng biện...)(*).
Tư tưởng của Hêgel về cấu trúc nghệ thuật đã được tiếp nối bởi các nhà tư tưởng hiện đại: Vƣgôtxki, Bakhơtin.
Chỉ khi nào người ta không chia tách nội dung và hình thức như hai mặt kết hợp tạm thời, một đằng là mục đích, một đằng là phương tiện, chỉ khi nào thấy được, nơi tác phẩm nghệ thuật, nội dung và hình thức thống nhất hài hòa, tồn tại nhất thể, nhƣ một cơ thể sống, lúc đó mới hiểu đúng đƣợc đặc trƣng của cấu trúc tác phẩm nghệ thuật. Cũng từ câu chuyện của Tônxtôi "Chỉ một chút thôi" đã kể bên trên, Vƣgôtxki đã rút ra một kết luận quan trọng :
"Nghệ thuật được bắt đầu ở cái chỗ có bắt đầu cái chỉ một chút thôi - điều này cũng có nghĩa là nói rằng nghệ thuật được bắt đầu ở cái chỗ hình thức được bắt đầu" (37:55) Bắt đầu từ cảm xúc về hình thức cũng có nghĩa là bắt đầu từ nội dung, cũng có nghĩa là không thể chia tách hình thức ra khỏi nội dung(**).
(*) Xem phân tích ở Chương IV - tiền nghệ thuật.
(**) Xem : chủ thể hóa hình thức - phương tiện nghệ thuật (Quy luật chủ thể hóa nghệ thuật, trang 130).
156
Bakhtin nghiên cứu thi pháp từ hình thức nghệ thuật, ông xem nghiên cứu hình thức chính là nghiên cứu nhà nghệ sĩ, nghiên cứu chủ thể sáng tạo : "Ở hình thức tôi tìm thấy bản thân mình, tìm thây tính tích cực năng sản, tạo hình của mình, tôi cảm thấy chính mình là kẻ sáng tạo hình thức để nói chung thực hiện một hình thức nhận thức nghệ thuật"(*).Và từ những năm sáu mươi về sau trong lý luận văn học bắt đầu dùng khái niệm "hình thức mang nội dung" - khái niệm của Bakhtin.
Có thể lấy loại văn hùng biện - một dạng chính luận nghệ thuật, để so sánh. Hêgel cho rằng trong các loại văn ứng dụng, văn hùng biện "có vẻ gần nghệ thuật tự do hơn". Người hùng biện có "những nhận định tự do của mình, cách suy nghĩ riêng của mình" (14 : IVA, 42). Ở đây có bộc lộ thái độ của chủ thể, có sự tự do thể hiện những hình thức biểu hiện cần thiết để đạt hiệu quả thuyết phục và người hùng biện đối diện trực tiếp với thính giả cố thu hút lôi kéo thính giả tin mình. Như vậy hùng biện có vẻ gần với thơ, với trường ca nghệ thuật.
Nhƣng, nhƣ Hêgel lại nói, đó chỉ là "có vẻ" thôi, hùng biện mang mục đích thực tế và ích dụng rất rõ : "Song, nếu nhìn dưới cái ánh sáng thực của nó thì chính nghệ thuật hùng biện lại là cái nghệ thuật chịu sự tất yếu của ích lợi thực tiễn nhất, dầu nó có vẻ là tự do". (14 : T IV A, 42, 43) Hêgel nói rõ mục đích và phương tiện của nó:
"Cái mà nhà hùng biện thú vị nhất không phải là lối trình bày hoàn mỹ về nghệ thuật.
Anh ta cũng không để tâm đến cái đó nhất. Trái lại, anh ta đeo đuổi một mục đích khác không liên quan đến nghệ thuật: đó là mục đích dùng hình thức và cấu trúc của bài diễn văn làm phương tiện ... Cách miêu tả chỉ là một phương tiện để thuyết phục họ (thính giả), bắt họ phải có những quyết định nào đó, phải làm những hành động nào đó" (IV A. 45 LV nhấn mạnh).
(*) M. Bakhtin Những vấn đề thi pháp Đôixtôiepxki, Nxb Giáo Dục, tr 7.
157
Về cơ cấu nội dung hình thức của nghệ thuật, có ba cấp độ đồng dạng nhƣ sau : Cấp nhận thức : Chủ thể (a1) - Khách thể (b1)
Cấp hình tƣợng : Biểu hiện (a2) - Tạo hình (b2) Cấp tác phẩm : Tư tưởng (a3) - Hình tượng (b3)
Trong tác phẩm NTĐT, sự thống nhất nội dung - hình thức, tính không thể chia cắt của mỗi một đơn vị "tế bào" nghệ thuật đều phản ánh đƣợc cả ba cấp độ đó, từ cội nguồn (chủ thể - khách thể) đến hình thái cơ bản ban đầu (biểu hiện - tạo hình) và sự hoàn thiện (tƣ tưởng - hình tượng). Các quá trình đó đều có thể dẫn chứng ở bất cứ quy mô nào của tác phẩm :
• Một từ, một khái niệm (trong ngữ cảnh của nó):
Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Tú Xương
Lặn lội: - Người đàn bà vất vả tần tảo buôn bán khắp chợ cùng quê nuôi chồng nuôi con (b1, b2, b3).
- Thương cảm có phần xót xa, về sự vất vả và hoàn cảnh của vợ (a1, a2, a3).
Eo sèo: - Cảnh tƣợng chen chúc, cải cọ, đổ vãi đồ đạc khi qua đò vội cho kịp phiên chợ (b1, b2, b3).
- Thương cảm có phần ái ngại tình cảnh cực nhọc của vợ (a1, a2, a3)
Những từ này, nằm trong ngữ cảnh này, là hình thức mang tính nội dung, không thể chia cắt, và kết quả của sự lựa chọn tối ƣu, kết hợp tối ƣu(*).
(*) "Lựa chọn", " kết hợp", cặp khái niệm của R.Iakôpxơn nói về hai thao tác cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật.
158
• Một đoạn thơ, một tình huống, một mẫu tâm trạng : Khi sao phong gấm rũ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
- Tâm tạng xót xa đau khổ về hiện tại và nuối tiếc quá khứ của nàng Kiều khi bị đẩy vào lầu xanh (b1, b2, b3).
- Tình thương, sự thông cảm của tác giả đối với nỗi đau khổ mất mát của người con gái bất hạnh (ai, a2, a3).
• Một nhân vật: Chí Phèo
- Người nông dân nghèo bị áp bức, bóc lột, cùng đường, trở thành lưu manh hóa, nổi loạn, phá phách, đòi được sống, được yêu, đòi lương thiện, nhưng đều tuyệt vọng, tự hủy diệt (b1, b2, b3).
- Tư tưởng tình cảm, thái độ của tác giả : vừa căm giận, châm biếm, mỉa mai hành vi phá phách kiểu côn đồ của Chí Phèo, vừa thương xót cảm thông, trân trọng chất nhân tính còn lại của y, đồng tình với hành động trả thù và tự hủy diệt - mang tính tố cáo, của y (a1, a2, a3).
Tính hai mặt thống nhất chặt chẽ, hữu cơ, nhất thể, mặt nọ nằm trong mặt kia, của cấu trúc ý thức, hình tượng, tác phẩm, có thể hình dung như mô hình cấu trúc âm dương: thái cực, lưỡng nghi, tứ tượng (Kinh dịch). Tính hài hòa, toàn vẹn, thể hiện đầy đủ trong cấu trúc âm dương, đó là hình ảnh của cấu trúc kiểu NTĐT(*).
Để có sự so sánh, đối chiếu, làm rõ hơn về cấu trúc của hai loại NTĐT và NTLT sẽ có phần trình bày về cấu trúc của tác phẩm NTLT trong Chương IV.
(*)- Âm : Chủ thể - biểu hiện - tư tưởng (phần đậm).
- Dương : Khách thể - tạo hình - hình tượng (phần trắng).
- Thiếu âm : a1, a2, a3 (chấm đậm).
- Thiếu dương : b1, b2, b3 (chấm trắng).
159
BẢNG PHÂN LOẠI VĂN HỌC ĐƠN TÍNH
159