Quy luật tình cảm - cảm xúc

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 133 - 147)

CHƯƠNG III: CHỨC NĂNG THẨM MỸ - NGHỆ THUẬT

II. Những quy luật đặc trƣng và cơ chế của tâm lý sáng tạo

2. Quy luật tình cảm - cảm xúc

Như hình ảnh một đầu tàu hỏa kéo cả đoàn tàu về một hướng phải chạy trên đường ray; quy luật chủ thể hóa là đầu tàu, đã định hướng, quy luật tình cảm - cảm xúc chính là cái đường ray. Đầu tàu và đường ray, hai bộ phận gắn liền nhau đưa cả đoàn tàu nghệ thuật vận hành đi tới.

Cũng nhƣ quy luật chủ thể hóa, quy luật tình cảm - cảm xúc chỉ hoạt động tất yếu và trọn vẹn trong hình thức nghệ thuật đơn tính. Ngoài phạm vi đó (các hình thức thẩm mỹ - phi nghệ thuật và thẩm mỹ - tiền nghệ thuật) quy luật không còn là tất yếu, hoặc chỉ hoạt động không trọn vẹn.

Nhưng trước khi nói đến phạm trù tình cảm nghệ thuật, ta gặp phải phạm trù cảm tính.

Và sau khi nói đến tình cảm, ta gặp phạm trù cảm xúc. Vậy cần xem xét qua vị trí hình thái học của ba phạm trù này đối với nghệ thuật, rồi mới đi vào quy luật tình cảm - cảm xúc.

Cảm tính và tình cảm, tình cảm và cảm xúc, từ đối tƣợng là cái đẹp đến đối tƣợng là nghệ thuật.

Đặc trƣng cảm tính là chỗ phân biệt đầu tiên ý thức thẩm mỹ và các hình thái ý thức khác.

Trong các sản phẩm nghệ thuật không ai nói là không có tư tưởng, không có lý tính, và chủ thể - nghệ sĩ càng nhƣ vậy, không phải chỉ có tình cảm và bản năng. Nhƣng không biết từ đâu và từ bao giờ, người ta phân cho nghệ thuật lãnh phần hoạt động trong thế giới cảm tính, tác động vào tình cảm con người. Vì vậy cơ chế của S nghệ thuật, của ý thức nghệ thuật chủ yếu là một cơ chế thiên về nhận thức cảm tính(*). Các nhà mỹ học thường đưa vào ý thức thẩm mỹ các phạm trù nhƣ: nhu cầu thẩm mỹ, cảm xúc - tình cảm thẩm mỹ, phán đoán thẩm mỹ, thị

(*) Triết học và tâm lý học phân biệt có hai quá trình nhận thức: nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác, biểu tƣợng), và nhận thức lý tính (khái niệm, phán đoán, suy lý, giả thuyết, lý luận...). Nhận thức cảm tính là ngọn nguồn duy nhất để con người có thể hiểu biết về thế giới bên ngoài.

134

hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ. Đó là những phạm trù của hai giai đoạn cảm tính và lý tính.

Con đường nhận thức chân lý, theo Lênin, là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là con đường nhận thức hiện thực khách quan và chân lý nghệ thuật của hệ thống S nghệ thuật(*). Giai đoạn trực quan sinh động đặc biệt quan trọng đối với sáng tạo nghệ thuật. Không phải người sáng tạo - S nghệ thuật, chỉ có năng lực nhận thức cảm tính, chỉ biết có giai đoạn thứ nhất - trực quan sinh động, và dừng lại ở đấy.

Về cơ bản, nghệ sĩ và nhà khoa học cũng phải có sự chuẩn bị nhƣ nhau, cũng phải rèn luyện nhƣ nhau về tri thức và văn hóa. Chỉ có khác là do năng khiếu và nhu cầu riêng, nghệ sĩ hành nghề bằng những phương thức và phương tiện cảm tính, cụ thể, đi qua cả ba giai đoạn kỹ lƣỡng rồi, phải quay về dồn nén cả ba quá trình đó vào giai đoạn thứ nhất - trực quan sinh động.

Phạm trù cảm tính gợi lên toàn bộ những hiện tƣợng khách quan và cả những ý thức chủ quan về thẩm mỹ và nghệ thuật. Nói cách khác, ta có thể phân cực nhƣ một câu xác định của Hêgel:

"... Sáng tác nghệ thuật là một cái nhằm phục vụ tri giác cảm tính của con người và vay mượn từ môi trường cảm tính." (Hêgel, 14 :IA, 47).

Sơ đồ 13

Chủ thể Khách thể

A B

Tri giác Môi trường

cảm tính cảm tính

Luận điểm nổi tiếng của nhà tâm lý học A. N. Lêôngchiev về tính hai mặt của đối tƣợng nhận thức, mặt ý nghĩa khách quan, và mặt ý nghĩa chủ quan - mặt hàm ý - do đánh giá của chủ thể, đƣợc một số nhà mỹ học lấy làm cơ sở xem xét đối tƣợng của nghệ thuật. Vậy đối tượng của nghệ thuật là cuộc sống của con người, nhưng cuộc sống được nhìn nhận thông qua lăng kính chủ quan của người

(*) Hệ thống chủ thể nghệ thuật gồm có: S sáng tác, S tiếp nhận và phê bình, S biểu diễn, S đạo diễn, S quản lý. Đây chủ yếu bàn về s sáng tác.

135

nghệ sĩ, qua thái độ tình cảm - cảm xúc của người nghệ sĩ. Đó chính là sự vay mượn từ "môi trường cảm tính" mà Hêgel xác định.

Nhƣng cảm tính chỉ là cánh cửa đầu tiên. Để thực sự đi vào thế giới của cái đẹp và nghệ thuật, phải nói đến tình cảm:

"Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, là sự bộc lộ, giãi bày và gửi gắm tâm tƣ". "Nghệ thuật là tình cảm, là sự thôi thúc bên trong. Không có cái đó sẽ không có nghệ thuật."(*)

Nghệ thuật sống nhờ năng lượng tình cảm, và tình cảm con người cũng phong phú thêm nhờ có nghệ thuật: hỉ, nộ, ái, ố, lạc, dục, ai, là thất tình, bảy cung bậc của cây đàn tình cảm từ khi có nhân loại. Ngoài nghệ thuật ra, không có một ngành hoạt động nào có khả năng giúp cho nhân loại bảo tồn và giao lưu sâu rộng trong cái đại dương năng lượng này.

Vậy, tình cảm là động lực thôi thúc sáng tạo, là cơ sở hạ tầng của tƣ duy nghệ thuật, là ngọn lửa nung nấu nhiệt tình gợi cảm cho ký hiệu và ngôn ngữ nghệ thuật, và, cũng chính tình cảm của người tiếp nhận là nơi nhận ngọn lửa để nuôi dưỡng cho hình tượng sống mãi.

Nhƣng theo tâm lý học thì tình cảm chỉ là một khái niệm rất chung chung. Nhƣ "thất tình" đã kể trên, là muôn thuở, cho mọi người, mọi thời. Tâm lý học cho rằng, tình cảm là sự lặp đi lặp lại của cảm xúc(**).

(*) Lê Ngọc Trà, 88 : 6 , 8.

(**) Cảm tính (sensible), nhận thức cảm tính (connaissance sensorielle), tình cảm (sentiment) cảm xúc (émotion). Theo Từ điển Tâm lý:

"Một cảm xúc thường lặp đi lặp lại, trong những tình huống và với những con người, những sự vật nhất định, quyện với những tri thức và tập quán nhất định trở thành tình cảm" (Từ điển tâm lý, tr 31)

"Lúc cảm xúc trở thành tình cảm thì sự rung cảm mất dần tính đột xuất, ...tính sinh lý chuyển dần sang thành tính tâm lý". "Cảm xúc được phân định rõ nét là cảm động, cảm xúc có cường độ cao gọi là cảm kích, (nên dùng xúc động đúng hơn là cảm kích. LV), cảm xúc nhạy gọi là đa cảm. Đa cảm hoặc ít đa cảm là một đặc điểm của tính tình. (nt.Tr 254).

Đó là sự phân biệt cảm xúc và tình cảm. Ở đây định nghĩa còn thiếu một vế cần đƣợc bổ sung nhƣ sau:

"Những cảm xúc đồng dạng lặp đi lặp lại thành một loại hình tình cảm: vui hoặc buồn". Theo tôi (LV) cảm xúc và tình cảm cũng nhƣ khái niệm thời tiết và khí hậu. Sự lặp đi lặp lại của thời tiết đồng dạng trong thời gian dài, tạo thành khí hậu.

136

Cảm xúc, đó mới là những rung rung động trực tiếp, cụ thể với những biểu hiện tâm lý cụ thể đi đôi với những phản ứng sinh lý cụ thể - lại có nhịp độ và cường độ. Cảm xúc còn phản ánh những đặc điểm của phong tục tập quán của nền văn hóa xã hội.

Vậy, cảm tính, hay tình cảm, vẫn là những phạm trù bao quát, nói đến nghệ thuật nên tập trung vào phạm trù cảm xúc. Tônxtôi cho rằng, đối tƣợng của nghệ thuật chính là thế giới cảm xúc đa dạng của con người. Trong "Nghệ thuật là gì ?" ông viết:

"Các cảm xúc, hết sức khác nhau, rất mạnh mẽ và rất yếu ớt, rất to lớn hay rất bé nhỏ, rất xấu xa và rất tốt đẹp, chỉ miễn chúng có lan truyền đến người đọc, người xem, người nghe, thì chúng mới hợp thành đối tƣợng của nghệ thuật"(*).

Nhƣng, ngay cảm xúc cũng là một từ dùng chung cho cả sinh lý học, tâm lý học, và mỹ học. Về sinh lý, hiện tƣợng cảm xúc chỉ chung cả giới động vật. Về tâm lý, cảm xúc là phản ứng tâm lý thể hiện sự rung động, say mê, hứng thú, không chỉ trong nghệ thuật, mà ở mọi công việc trong đời sống. Nhận thức khoa học rất cần cảm xúc, tưởng tượng, như Lênin đã nói: "Sẽ không bao giờ có thể có sự tìm tòi chân lý của nhân loại nếu không có cảm xúc của con người", "không có tưởng tượng thì cũng sẽ không có phép vi phân và tích phân"(**). Vậy, cũng nhƣ những thuật ngữ tâm lý khác, thuật ngữ này cũng phải liên ngành tâm lý và mỹ học, trở thành thuật ngữ tâm lý học nghệ thuật, đó là cảm xúc nghệ thuật.

(*) L.Tônxtôi. toàn tập, tập 30, M.1952, tr 64, 65 (Chuyển dẫn theo Marcôv. 22 : 45)

(**) Chuyển dẫn theo Tâm lý học của P.Ruđich. nxb Mir, tr 79.

137

Xem một ngôi nhà kiến trúc hài hòa trang nhã

Đọc tập Thƣợng kinh ký sự của Hải Thƣợng Lãn Ông, Đọc tập thơ Lửa Thiêng của Huy Cận.

Qua ba dạng tiếp xúc kể trên, đều có gây cho ta khoái cảm. Nhƣng hiệu quả cảm thụ rất không giống nhau, do những đối tƣợng có nội dung chức năng khác nhau, tuy vẫn là khoái cảm trước cái đẹp, khoái cảm thẩm mỹ. Dạng thứ ba, phức tạp và đa dạng hơn, "nặng" hơn, sâu hơn, khó hơn, đó là khoái cảm nghệ thuật.

Vậy ta có sơ đồ về ba bậc thang cảm xúc thẩm mỹ:

Sơ đồ 14

nhận thức cảm tính

mỹ hóa bậc 1 mỹ hóa bậc 2 mỹ hóa bậc 3

cảm xúc thẩm mỹ cảm xúc nghệ thuật cảm xúc nghệ thuật

(phi nghệ thuật) (NT ứng dụng - lƣỡng tính) (NT thuần nhất - đơn tính):

tình cảm - cảm xúc thẩm mỹ

Sơ đồ hình thái học đã chỉ ra vị trí của tình cảm - cảm xúc nghệ thuật, mà biểu hiện thường xuyên là khoái cảm, tuy nhiên, khoái cảm nghệ thuật có đặc điểm gì, cần phải được xem xét.

"Nghệ thuật nhằm mục đích gợi lên ở ta những tình cảm và do đó những tình cảm chúng ta cần tức là những khoái cảm" (14: T1, 47)

Hêgel nêu quan niệm này nhưng ông phê phán một khuynh hướng mỹ học tình cảm của thế kỷ XVIII do Môixê Menđenxơn (Nhà triết học Do Thái Đức) đề xướng. Trong việc khảo sát đặc trƣng nghệ thuật, ông cho rằng chỉ nhấn mạnh tình cảm đơn thuần thì "sẽ không đi xa", vì "tình cảm là một lĩnh vực mơ hồ". Cần luôn gắn tình cảm với nội dung của nghệ thuật, gắn với cái đẹp của nghệ thuật.

138

"Tác phẩm nghệ thuật sở dĩ là tác phẩm nghệ thuật chính bởi vì nó đẹp. Xuất phát từ đó ta phải cố gắng tìm cách chỉ ra tình cảm đặc thù của cái đẹp và tìm cái khả năng tri giác tương ứng". Để có được thứ tình cảm đó, ông cho rằng, không thể dựa vào "trực giác mù quáng", mà phải có "sự tu dƣỡng về văn hóa với tính cách một điều kiện chuẩn bị cho tri giác này và cái tình cảm về cái đẹp được văn hóa trao dồi mang tên gọi là năng khiếu thưởng thức.

Năng khiếu thưởng thức tuy là do văn hóa bồi dưỡng nên, song vẫn còn giữ tính chất một tình cảm trực tiếp" (14 : T1, 49 - Những chỗ nhấn mạnh là của Hêgel).

Quan niệm của Hêgel giúp ta phân biệt đặc trƣng cảm xúc nghệ thuật đơn tính với các dạng cảm xúc thẩm mỹ khác. (Tình cảm về cái đẹp Hêgel nói ở đây là thuộc nghệ thuật đơn tính, vì đối tƣợng cái đẹp mà Hêgel nghiên cứu là "cái đẹp của nghệ thuật").

Vậy, việc phân biệt về hình thái học để xác định tính đặc thù của cảm xúc nghệ thuật, khoái cảm nghệ thuật, là cần thiết.

Khi nghiên cứu theo phương pháp hệ thống về tư duy sáng tạo nghệ thuật, chúng tôi lấy cảm xúc nghệ thuật làm phạm trù hạt nhân, phạm trù gốc trong toàn bộ hệ thống phạm trù và khái niệm tâm lý nghệ thuật(*). Nó là đặc trƣng tâm lý có tính phổ quát, làm "thừa số chung" cho các hiện tượng tâm lý khác, được xác định dưới dạng các phạm trù và khái niệm tâm lý nghệ thuật, như: trực cảm, cảm hứng, tưởng tượng, thái độ, hữu thức, vô thức, và cả catácxít nữa, v.v. Đi vào cụ thể, có thể xem xét đặc trƣng của loại thể (cảm xúc trữ tình, tự sự, kịch), cảm xúc đặc trƣng của mỗi thể văn (cảm xúc trong thể tiểu thuyết khác trong truyện ngắn... ). Các loại và thể dù khác nhau đến đâu, vẫn có chỗ giống nhau, vì có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt qua chúng: cảm xúc nghệ thuật.

(*) Theo phương pháp tiếp cận hệ thống, mỗi hệ thống lý luận có một hay vài phạm trù gốc làm cơ sở suy luận nhất nguyên (monisme) cho cả hệ thống. Aritxtốt có bắt chước (mimésis), Hêgel có ý niệm tuyệt đối, Mác (về kinh tế học) có thặng dƣ giá trị, Secnƣsepxki có cái đẹp là cuộc sống.

139

Qua một khu vực không thuộc tâm lý sáng tạo, mà thuộc bản thể của nghệ thuật - hình tượng và tác phẩm - cảm xúc cũng là hạt nhân. Cảm xúc của người kể chuyện chi phối việc miêu tả tính cách nhân vật; và tư tưởng tác phẩm không có gì khác là cảm xúc chủ đạo, thái độ cảm xúc của tác giả. Đến khi nghiên cứu rộng hơn, phong cách của tác giả, của trường phái nghệ thuật, sự phân biệt vẫn phải căn cứ vào cảm xúc nghệ thuật. Chỉ khác là, ra ngoài hệ thống tâm lý nghệ thuật, ngoài cảm xúc nghệ thuật, các hệ thống khác còn có những phạm trù gốc khác nữa.

Tình cảm và cảm xúc, là đại dương năng lượng của nghệ thuật, vừa mênh mông vừa sâu thẳm, sóng nổi và sóng ngầm, nơi phơi bày mọi vẻ đẹp của nghệ thuật dưới mặt trời, và cũng là nơi tiềm tàng ẩn giấu mọi tiềm năng bí ẩn và kỳ diệu của nghệ thuật. Vì vậy, nói về nó không dễ dàng, luôn luôn vẫn là "cái khó".

Đây là bước thử nghiệm tập hợp theo hệ thống các thuộc tính của cảm xúc nghệ thuật, xem nhƣ những biểu hiện có tính quy luật trong guồng máy của tƣ duy sáng tạo nghệ thuật:

Quy luật tình cảm - cảm xúc, gắn liền với quy luật chủ thể hóa:

Quy luật tình cảm - cảm xúc hoạt động theo những tiến trình và phương diện tất yếu như sau :

* Tác phẩm nghệ thuật đơn tính (TPNT) sản sinh vì tình cảm và khoái cảm

* TPNT chỉ sản sinh khi chủ thể có nhu cầu bộc lộ tình cảm.

* TPNT chỉ sản sinh trong điều kiện tâm thế tự do.

* TPNT chỉ sản sinh khi có điều kiện đồng cảm

* TPNT chỉ sản sinh sau quá trình chuyển hóa và hòa hợp mọi thành phần tâm lý đối lập.

Ở đây chỉ đi vào một biểu hiện cuối cùng trong số các biểu hiện của quy luật tình cảm - cảm xúc :

140

Tác phẩm nghệ thuật chỉ sản sinh sau quá trình chuyên hóa và hòa hợp những thành phần tâm lý đối lập

Nếu xem nghệ thuật nhƣ là cuộc sống, là sự sống toàn vẹn, thì cảm xúc nghệ thuật là một hiện thân sinh động nhất của quá trình sống đó. Đây là cả một cơ chế, một guồng máy của những biểu hiện tâm thần cực kỳ phong phú, đa dạng, cực kỳ phức tạp và bí ẩn. Đây là ngọn nguồn của sáng tạo, là quy trình của sự thai nghén và mang nặng đẻ đau, để cho ra đời những tác phẩm - những sinh thể mang sự sống, sức sống, của thiên tài. Nhìn vào guồng máy phức tạp của chiếc máy tính hoặc của con tàu vũ trụ, người ta như không hiểu nổi vì sao con người có thể chế tạo được như vậy. Nhưng đó vẫn là sản phẩm do con người làm ra, do bộ máy trí tuệ và đôi tay của con người. Bộ máy - siêu máy của trí tuệ sáng tạo ra sản phẩm công nghệ. Còn guồng máy - siêu máy của tâm lý nghệ thuật. Sáng tạo ra những tác phẩm của sự sống. Sản phẩm công nghệ có hạn tuổi, sẽ lạc hậu. nhƣng tác phẩm nghệ thuật thì sống mãi.

Từ đó, mọi sự miêu tả, dựng mô hình về cái guồng máy - siêu máy này đều vô hiệu. Nếu có, chỉ là một gợi ý trone muôn gợi ý, để thử nghiệm và tham khảo. Huống chi có nơi có lúc.

người ta muốn khẳng định rằng nó chỉ là thế này, chỉ là thế kia, khống thể thế này, không thể thế kia (chỉ có ý thức, không có vô thức, chỉ có tâm thức, không có tâm linh, chỉ có suy cảm, không có trực cảm v.v...) Khi say mê nghệ thuật thì như say mê người tình, nhưng khi lý luận về nghệ thuật thì người ta trở thành duy vật - khắc khổ cũng như duy tâm - khắc kỷ. Nhà mỹ học cơ đốc giáo nổi tiếng Augustin (354 - 430) từng thú tội trước Chúa vì những xúc động không đƣợc phép khi nghe những bài thánh ca. Trong chúng ta cũng có những nghệ sĩ lãng mạn có hạng từng ray rứt vì một thời mình đã mơ mộng quá nhiều.

Hoạt động sáng tạo nghệ thuật là sự huy động toàn lực, toàn diện những năng lực năng khiếu, không khoanh vùng giới hạn và cũng không kiêng kỵ một hình thái này hay một hình thái khác trong cơ chế tâm sinh lý của con người. Đó là điều khác biệt giữa hoạt động sáng tạo nghệ thuật với các loại hoạt động sáng

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 133 - 147)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(238 trang)