CHƯƠNG III: CHỨC NĂNG THẨM MỸ - NGHỆ THUẬT
II. Những quy luật đặc trƣng và cơ chế của tâm lý sáng tạo
1. Quy luật chủ thể hóa nghệ thuật
Trước hết, cần kéo dài tiêu đề trên cho đủ ý, cũng là sự giới hạn vấn đề: Đây là chủ thể hóa trong quá trình sáng tạo tác phẩm nghệ thuật đơn tính, và chủ thể hóa bằng tình cảm.
Vì sao, và từ bao giờ, nghệ thuật có yêu cầu chủ thể hóa, chủ thể hóa nhƣ là quy luật.
Vì, nghệ thuật khác khoa học, khác nghệ thuật lƣỡng tính, với chức năng nghiêng về chủ thể, phản ánh cuộc sống qua kinh nghiệm cá thể.
Từ khi, con chim nghệ thuật có đủ lông cánh rời cái tổ văn hóa nguyên hợp, trở thành cánh chim tự do, nghệ thuật tự do, thuần nhất, đơn tính, thì quy luật chủ thể hóa bắt đầu. Đó là khi Hômer bắt đầu khúc trường ca bất tử về chiến trận và tình yêu với giọng riêng của mình, là lúc, cách nay một ngàn năm, nhà sƣ Mãn Giác viết bài thơ kệ Cáo bệnh để gởi lại cho người đời một niềm suy tư(*).
Tư duy sáng tạo khoa học đi theo hướng ngược lại, nghiêng về phía khách thể, thực hiện khách thể hóa bằng con đường lý tính. "Hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan"
trong khoa học cũng chỉ là sản phẩm của lý tính. Sáng tạo nghệ thuật lƣỡng tính đứng giữa hai hình thái tƣ duy đó, thực hiện một nửa, một phần những yêu cầu chủ thể hóa nghệ thuật, vì một nửa nhiệm vụ chức năng nó phải hướng vào quy luật khách thể hoá của khoa học và chính luận.
Nghệ thuật lƣỡng tính có nhiệm vụ, chức năng hai mặt, ích dụng và nghệ thuật, chỉ làm nghệ thuật một nửa, do đó không có nhu cầu quán triệt hết các bước đi của quy luật chủ thể hóa, quy luật tình cảm đƣợc miêu tả sau đây.
Những phương diện tất yếu phải qua quá trình chủ thể hóa:
(*) Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân ruổi, trăm hoa rụng, Xuân đáo bách hoa khai. Xuân tới, trăm hoa cười.
Sự trục nhãn tiền quá, Trước mắt, việc đi mãi.
Lão tòng đầu thƣợng lai. Trên đầu, già đến rồi.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. Đêm qua sân trước, nở cành mai.
122
• Chủ thể hóa động cơ sáng tạo (Tôi viết, tôi vẽ cho tôi)
• Chủ thể hóa vị trí sáng tạo (Tiếng nói này, nét vẽ này là của tôi)
• Chủ thể hóa đối tƣợng phản ánh và sáng tạo (Mọi điều tôi nói, tôi kể đều là kinh nghiệm rút từ cuộc đời tôi)
• Chủ thể hóa hình thức, phương tiện sáng tạo (Tôi chỉ quen dùng, và phải biến những từ ngữ, màu sắc thành quen thuộc nhƣ tứ chi của cơ thể mình)
Thứ nhất: chủ thể hóa động cơ sáng tạo: vị ngã để vị tha, tôi viết, tôi vẽ cho tôi, vì nhu cầu tự bộc lộ, sau đó, gởi đến cho tri âm và cho cộng đồng xã hội.
Hồ Chủ tịch viết Nhật ký trong tù trước hết để cho mình:
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
và không có ý định phổ biến tập thơ. Nhƣng những bài thơ tuyên truyền viết ở căn cứ địa Việt Bắc trước 1945, là nhằm đăng báo, tìm mọi cách cho đồng bào đọc. Không thể hiểu vị ngã trước, là "cá nhân chủ nghĩa". Vị ngã trong sáng tạo nghệ thuật không hề gắn với vị kỷ, vì nếu là nghệ sĩ đích thực, thì cái nỗi bất bình (tắc minh) của họ bao giờ cũng chất chứa những tình cảm lớn, tình cảm vị tha(*).
Lỗ Tấn có câu nói nổi tiếng: "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc". Ông tích cực viết tạp văn để chiến đấu vì châm ngôn đó. Còn tâm sự trong truyện "Cố hương" là lời tự thán, không thể làm vũ khí chiến đấu trực tiếp nhƣ tản văn, nhƣng về lâu dài, nó là "một thứ vũ khí thanh cao", vì đó là lời tự thán của một nhân cách lớn.
Với nghệ thuật lưỡng tính, sự sáng tác thường bắt đầu từ yêu cầu xã hội, sau đó mới gắn vào những yêu cầu cá nhân. Xây dựng công trình kiến trúc, sản xuất những mỹ nghệ phẩm, vẽ bức tranh tuyên truyền, quảng cáo, tạc pho tƣợng Phật cho nhà chùa, xuất phát ban đầu đều do yêu cầu xã hội, sau đó, trong quá
(*) Hàn Dũ đời Đường đã nói ra bốn chữ, có thể xem như một quy luật của sáng tạo nghệ thuật: "Đại phàm vật bất đắc kỳ bình tắc minh" (vật hễ không được thỏa mãn thì thế phải kêu lên).
123
trình thực hiện, người nghệ nhân - nghệ sĩ mới tìm cách thể hiện ý hướng và phong cách riêng của mình. Những tác phẩm văn học lịch sử, trừ tiểu thuyết, xuất phát là những bài ký văn học, thơ ca tuyên truyền giáo huấn, cũng đều xuất phát từ phân công xã hội ( làm sử quan, làm nhà chính trị, nhà báo ), do sự đòi hỏi phục vụ một sự nghiệp đấu tranh, một phong trào... Người sáng tác phải quên mình vì người khi làm việc này, tự tiết chế những tưởng tƣợng bay bổng để ghi đúng cái có lý, cái có thật.
Với nghệ thuật đơn tính, sự sáng tác bắt đầu từ yêu cầu cá nhân, sau mới đến xã hội, theo nguyên tắc "bất bình tắc minh". Tiếng nói tự mình, cho mình, nhằm tự giải tỏa, để rồi đến với người, cho người. Nghệ thuật này vị ngã trước vị tha. Vì nỗi đau đứt ruột, mà kêu, mà kể lại chuyện cũ ( Đoạn trường tân thanh, Cảo thơm lần giở trước đèn )
Trong khi đó, nghệ thuật lƣỡng tính (từ kiến trúc, mỹ thuật mỹ nghệ đến văn lịch sử và ký sự văn học) đều bắt đầu do sự phân công, do đòi hỏi phục vụ xã hội từ đó gửi phong cách cá nhân vào. Nghệ thuật này vị tha trước, vị ngã sau. Có thể theo dõi hai véctơ nghịch chiều đó :
Sơ đồ 12
Điểm xuất phát Điểm xuất phát
Nghệ thuật đơn tính
Yêu cầu cá nhân Yêu cầu xã hội
Nghệ thuật lƣỡng tính
Chú thích: Đuôi mũi tên - động lực đầu tiên. Đầu mũi tên - tác dụng, hiệu quả về sau.
Thứ hai, chủ thể hóa vị trí, danh nghĩa sáng tạo: Tiếng nói này, nét này là của tôi, nhân danh cá nhân tôi.
124
Cũng xem xét từ đặc trƣng chủ thể sáng tạo, ta lại có thêm một câu định nghĩa nghệ thuật hết sức đơn giản nhƣng không sai: "Nghệ thuật là sản phẩm của cái tôi", đúng nhƣ câu nói của Bécna: "Nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta"(*).
"Hình thức cảm tính và hình tƣợng (của tác phẩm nghệ thuật) phải có tính cá biệt, hoàn toàn cụ thể và đơn nhất ở bản thân nó" (Hêgel, 14 : TI, 101)
"Văn, chính là người" (Buffon : Le style, c'est l'homme)(**)
"Văn như con người của nó. Văn thâm hậu thì con người của nó trầm và tĩnh; văn ôn nhu thì con người của nó khiêm và hòa"
( Nguyễn Đức Đạt: 86, 89 )
"Nhà văn là một cá tính sáng tạo độc lập và đi vào quá trình văn học với đặc tính quyết định đó của mình". ( Khrapchenkô : 69, 88 )
Khoa học vẫn đề cao những sáng tạo cá nhân, cũng mãi mãi ghi những giá trị độc đáo của những cống hiến cá nhân, nhƣng đó là sự độc đáo phát hiện từ khách thể, phản ánh những quy luật khách quan về tự nhiên và xã hội (nhƣ phát minh của Anhxtanh về vật lý, của Mác về kinh tế chính trị). Khoa học không có nhu cầu cá tính hóa trong văn bản khoa học. Chỉ có khuynh hướng, quan điểm cá nhân trong khoa học xã hội, nhưng đó là quan niệm lý tính, vẫn thuộc về cái chung, cái "chúng ta".
Chủ thể hóa trong khoa học xã hội nếu có, là chủ thể hóa quan điểm lý tính. Chủ thể hóa trong nghệ thuật là chủ thể hóa bằng thái độ tình cảm. Nhà triết học - tác giả của những học thuyết; nhà sử học - tác giả của những nhận định lịch sử, vẫn đƣợc ghi sử sách, nhân loại biết tới, nhưng đó vẫn là những học thuyết, khuynh hướng đại diện cho một tầng lớp, một xu thế chung nào đó thuộc về cái "chúng ta". Đó chỉ là phần tư tưởng - lý tính của họ, không phải là toàn bộ
(*) Claude Bemart (1813-1878): "L'art c'est moi, la science c'est nous"
(**) "Đặc tính của tôi, chính là hình thức, nó là cá tính tinh thần của tôi. "Le style, c'est l'homme". Pháp luật cho phép tôi viết, nhƣng với điều kiện là phải viết với một thứ văn không phải là văn của tôi" ( Mác viết để phê phán chế độ "tự do báo chí" của vua Phổ, 1843, dẫn lời Buffon bằng nguyên văn tiếng Pháp. Chữ nhấn mạnh là của Mác. la : 117 )
125
tư tưởng tình cảm, toàn bộ kinh nghiệm sống cả về thân xác và tâm thần của cuộc đời họ, như trường hợp cá tính nghệ sĩ đưa vào tác phẩm nghệ thuật.
Vị trí của chủ thể thuộc văn học ứng dụng - lƣỡng tính là ở giữa hai loại chủ thể, hay nói cách khác, đó là "chủ thể kép" : vừa là chủ thể khoa học, vừa là chủ thể nghệ thuật, mỗi bên một nửa nhiệm vụ. Khi viết văn ký sự trung thành với sự kiện có thật, lúc ấy anh làm chủ thể khoa học, nhƣng anh trình bày với giọng văn có tình cảm, có lối nói độc đáo, lúc đó anh thực hiện vai chủ thể nghệ thuật. Nhưng anh không được để cho tưởng tượng tung hoành bay bổng, không đƣợc hƣ cấu nghệ thuật, theo đúng nghĩa của từ này, từ đó anh không thể bộc lộ đƣợc hết cá tính nghệ thuật, không thể đứng hoàn toàn ở vị trí cái tôi nghệ thuật.
Cá thể hóa, cái tôi nghệ thuật, xuất hiện từ khi có nghệ thuật đơn tính ra đời. Nói cách khác, nhờ có sự ra đời của nghệ thuật đơn tính, mà cái cá nhân (individu), cá tính, được phát hiện và ghi nhận một cách sinh động trong "bộ nhớ xã hội", là nghệ thuật. Nhƣng chủ thể hóa nghệ thuật để khẳng định ''cái tôi" không phải là việc một sớm một chiều. Đó là "công trình kể biết mấy mươi", của bao nhiêu thế hệ, từ Hômer, Khuất Nguyên, tiêu biểu cho những thế hệ đầu tiên. Ý thức về cá nhân theo dòng lịch sử khẳng định đến đâu, cá tính hóa nghệ thuật được phát huy tới đó. Từ cận đại về sau, nhất là từ khi chủ nghĩa lãng mạn phương Tây ra đời, chủ thể nghệ thuật, với cái tôi rực rỡ hào quang, đã chứng minh cho sự phong phú tinh vi vô tận của thế giới vi mô, nơi tâm trạng cá nhân mỗi một con người. Điều này bất cứ loại hình nhận thức nào cũng không sánh đƣợc với nghệ thuật. Và nghệ thuật đáng đƣợc loài người ban thưởng huân chương cao quý nhất.
Thứ ba, chủ thể hóa đối tượng phản ánh và sáng tạo. Mọi điều tôi nói, tôi kể đều là sự cảm nhận, sự nếm trải, là kinh nghiệm rút ra từ cuộc đời tôi.
"Tôi không thể viết về bất cứ một điều gì mà kinh nghiệm cá nhân chƣa quả quyết xác nhận, mà lại không có cơ sở thực tế ".
126
(Bairơn, 69 : 121)
"Để nói đƣợc về tình yêu thì nhất thiết phải sống qua nó đã"
(Boalô, 69 : 120)
Những cảm giác tinh tế, nhạy bén, những khả năng quan sát, những sự nếm trải, những tiếp xúc va chạm... đã đƣợc tích lũy trong kinh nghiệm sống trong vốn sống của nghệ sĩ, có ý nghĩa quan trọng gần nhƣ là ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với nghệ thuật.
"Mỗi nhà văn đều có những có ôm ấp, những cái vốn riêng của mình đƣợc hình thành từ con đường đời riêng của mỗi người, từ kinh nghiệm lịch lãm, từ cách nhìn, cách cảm nghĩ không ai hoàn toàn giống ai" (Lê Đình Kỵ, 45 : 103)
Tất nhiên làm đƣợc nghệ sĩ thực thụ, các vốn tri thức khác là không thể nào thiếu đƣợc, trong đó có loại kinh nghiệm gián tiếp (từ trong sách vở ), nhƣng sản phẩm nghệ thuật là cuộc sống, là sự sống, phải đƣợc cấu thành bởi những chất liệu của sự sống. Làm khoa học, viết truyện viễn tưởng và truyện dã sử loại tầm tầm có thể dựa vào sách vở. Nhưng đã sáng tác thực sự, muốn thành tác phẩm nghệ thuật thực sự, phải có vốn sống, người ta gọi tác phẩm là con đẻ tinh thần, chính vì trong đó có hơi thở, có máu thịt của bản thân người nghệ sĩ. L. Tônxtôi viết "Chiến tranh và hòa bình" phải sử dụng một khối lƣợng đồ sộ kiến thức sách vở, nhƣng tác phẩm ấy thực sự vĩ đại là nhờ có những kinh nghiệm cuộc đời của ông trong các xa lông thượng lưu, trong việc gần gũi những tá điền của ông, và đặc biệt về chiến tranh, nếu ông chƣa từng là sĩ quan và tham gia các trận đánh ở Sevastopol thì ông không thể miêu tả cuộc chiến đấu năm 1812 sinh động nhƣ vậy. Họa sĩ Nga Rêpin nổi tiếng với bức tranh "Người kéo thuyền trên sông Vônga", trong đó những chân dung và những động tác của các phu kéo thuyền gây một ấn tượng không thể nào quên đối với người xem, không phải chỉ vì tài hoa và óc tưởng tượng, mà chính nhà danh họa này đã từng đi về sống cùng những phu thuyền trên bờ sông Vônga, thấu hiểu đƣợc họ, để tái hiện chân dung
127
của họ không chỉ ở những diện mạo bên ngoài. Những thí dụ loại này rất nhiều ngay cả với những nghệ sĩ Việt Nam, nhƣ Nguyễn Du, cũng có một cuộc đời truân chuyên nhƣ nàng Kiều, hiện đại có Nam Cao, Nguyên Hồng v.v...
Có thể nói, không có lời nhận xét nào về chủ thể sáng tạo - người đã làm nên kiệt tác Đoạn trường tân thanh, xác đáng, hơn nữa rất thích hợp với lý luận hiện nay về sáng tạo nghệ thuật, hơn những lời bình của Mộng Liên đường chủ nhân:
"Trong một tập chỉ chung lấy bốn chữ "Tạo vật đố tài" tóm cả một đời Thúy Kiều : khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm khúc tiêu tao; khi duyên ƣa kim cải, non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ càng tê lưỡi. Vui, buồn, tan, hợp, mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy.
... Ta lúc nhàn đọc hết cả một lƣợt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Nhƣ tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hết, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy... "
(Tựa Truyện Kiều, 1820. LV nhấn mạnh )
Ở đây tài năng và thành tựu của chủ thể sáng tạo đƣợc dồn vào hình ảnh sức mạnh của ngòi bút (bút lực), và nhờ cái bút lực ấy, mới có tác phẩm Đoạn trường tân thanh. Có đƣợc bút lực ấy là nhờ con mắt (trông thấu cả sáu cõi), và tấm lòng ( nghĩ suốt cả nghìn đời).
Con mắt nhìn, đó là những điều trông thấy, là khách thể đƣợc cảm nhận, không phải chỉ chuyện về một đời người, ở một triều Gia Tĩnh, mà suốt cả sáu cõi. Tấm lòng nghĩ, đó là sự suy ngẫm, là thái độ cảm xúc, là nỗi đau không chỉ vì thân phận một người, mà suốt cả nghìn đời. Đoạn trường tân thanh viết dựa vào một cuốn truyện Kim Vân Kiều chỉ là một cái cớ, một chỗ dựa, còn vốn sống, kinh nghiệm sống, những hiểu biết về cuộc đời và
128
con người, cùng những suy tư của cả một đời, "sáu cõi" và "nghìn đời" mới có bút lực viết ra kiệt tác ấy. Tạm vẽ một sơ đồ theo câu trên:
cái nhìn về khách thể: sức mạnh sáng tạo
"con mắt trông thấu sáu cõi" tạo nên kiệt tác cảm xúc từ chủ thể: "có bút lực ấy"
"tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời"
Chủ thể hóa về nội dung - đối tƣợng phản ánh, là việc khai thác những sự kiện, hình ảnh xuyên qua sự cảm nhận chủ quan, có sự nếm trải bởi kinh nghiệm sống của chủ thể. Đối tƣợng phản ánh dù là sự kiện đọc đƣợc ở đâu đó (Cảo thơm lần giở trước đèn - Nguyễn Du - Trước đèn xem truyện Tây Minh (?) -Nguyễn Đình Chiểu ) thuộc loại kinh nghiệm gián tiếp, cũng phải đƣợc chủ thể hóa.
Với những sự tích có sẵn, trước hết nghệ sĩ cảm thấy hợp với những suy tư của mình trước nay, nên mới chọn lấy. Trong bao nhiêu truyện Tàu đã đọc, Nguyễn Du chỉ chọn Kim Vân Kiều truyện, chắc chắn không phải ông cho là truyện hay nhất, mà chỉ là truyện thích hợp nhất, với chủ đề mình đang nung nấu, có thể mƣợn làm nơi gởi gắm tâm tƣ của mình (về tài mệnh tương đố, về hồng nhan bạc phận, và nhất là, về nỗi đau nhân tình). Lựa chọn toàn bộ cốt truyện, và lựa chọn từng sự kiện, tình tiết trong câu chuyện. Thanh Tâm Tài Nhân (TTTN) để cho Kim Trọng nói năng và cử chỉ vồ vập sỗ sàng khi yêu, Nguyễn Du diễn tả tế nhị hơn. TTTN cho Kiều nương nhẹ khi báo thù Hoạn Thư bằng cách không giết mà cho đánh 100 roi, "toàn thân chẳng còn một miếng da nào lành lặn". Còn Thúy Kiều của Nguyễn Du thì "Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay", không đánh một roi nào. Những sự lựa chọn chi tiết nhƣ vậy đều xuất phát từ thái độ, tình cảm, từ cái tâm, từ trình độ văn hóa, không phải là sự lựa chọn mang tính kỹ thuật đơn thuần.