Hình mẫu: từ âm nhạc và thơ

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 114 - 122)

CHƯƠNG III: CHỨC NĂNG THẨM MỸ - NGHỆ THUẬT

I. Đối tƣợng ƣu tiên khi tìm đến đặc trƣng nghệ thuật

3. Hình mẫu: từ âm nhạc và thơ

Nếu muốn tìm một thước đo, nếu muốn tìm một hình mẫu, nơi tập trung những đặc trưng quan trọng nhất của nghệ thuật - trước hết là đặc trưng về vai trò của chủ thể nghệ thuật - thì có thể tìm đến với âm nhạc và thơ.

Không phải ngẫu nhiên mà người Hy Lạp xưa lấy tên chung các nữ thần nghệ thuật để sợi âm nhạc : muydơ (muses). Không phải ngẫu nhiên khi cần đến hình ảnh tƣợng trƣng cho sự quyến rũ, sức mạnh của nghệ thuật, người ta mượn hình ảnh huyền thoại về tiếng đàn Oócphê, tiếng sáo Trương Lương, tiếng đàn Thạch Sanh, tiếng hát Trương Chi. Tiếng đàn Oócphê làm sông ngừng chảy, lá ngừng rơi, mãnh thú trở nên hiền lành, quỷ sứ không còn hung hãn.

114

Không phải ngẫu nhiên mà thời nguyên hợp, nhạc kết duyên cùng thơ cho đến khi chia thành đôi ngã, chiếm lĩnh hai ngành nghệ thuật, vẫn còn giữ lai một hình thức vừa nhạc vừa thơ, không bao giờ rời nhau nữa, trở thành một trong những bạn đời gắn bó hàng ngày của nhân loại, đó là những bài ca. Và kỷ vật còn lưu lại của mối tình này là Trữ tình (lyrique), đặc tính của thơ, chính là tên một cây đàn (lyre). Khi thơ mƣợn hồn nhạc để định hình thể loại thì nhạc cũng mượn hồn thơ, chất thơ, để đặt tên thể tài (Giao hưởng thơ).

Khái niệm "tri âm" xuất xứ từ chuyện người chơi đàn người nghe đàn Bá Nha - Tử Kỳ, không còn là khái niệm dành riêng cho âm nhạc, mà cho nghệ thuật nói chung, chƣa nói nó còn trở thành ngôn ngữ đời thường.

Thơ và nhạc kết duyên với nhau vì cả hai cùng chung một sở trường tình cảm, đều có khả năng giúp con người tự bộc lộ tình cảm một cách trực tiếp.

Vì nó có sở trường đặc biệt, bảo bối mà các nghệ thuật khác không có, đó là thứ tín hiệu gợi cảm và biểu hiện tâm trạng một cách trực tiếp, có hiệu quả nhất : là âm thanh, nhịp điệu của nhạc và những lời nói tình cảm có âm thanh, nhịp điệu của thơ.

Dù các hình thức thể loại có phân chia đến đâu, thì yếu tố cốt lõi, hạt nhân của mọi hình tƣợng nghệ thuật, vẫn là chất cảm xúc - cá biệt (của chủ thể sáng tạo), gọi là chất biểu hiện. Và, biểu hiện chính là đặc trƣng bản chất của nhạc và thơ. Khi nói đến hai nhóm nghệ thuật tạo hình và biểu hiện, thì nhóm thứ hai, đầu tiên phải kể nhạc và thơ. Còn chất biểu hiện là hạt nhân, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả mọi nghệ thuật, nếu không, nghệ thuật không còn là nó nữa.

Không phải ngẫu nhiên "ca", không chỉ là ca hát, "bài ca", không chỉ là một thể loại âm nhạc mà còn là cừ gọi chung, cho mọi nghệ thuật, những dạng tác phẩm có nhạc hoặc không liên quan gì với nhạc, nhƣng có cái chung là năng

115

lƣợng tình cảm: từ trường ca, anh hùng ca cổ đại đến trường ca hiện đại; từ những bài ca bằng chơ hiện đại (Bài ca chim Chơ rao, Bài ca mùa xuân 61) đến những bài ca trong điện ảnh (Bài ca người lính, Bài ca ra trận). Đến lƣợt hội họa cũng mƣợn cách gọi gam màu, giai sắc, và cả lý luận: tiểu thuyết phức điệu.

Vì sao có thể xem nhạc và thơ là một nơi quy tụ những đặc trƣng nghệ thuật là nghệ thuật của nghệ thuật? Chỉ cần gọi lên một số điều, xem nhƣ quy luật bản chất của nghệ thuật, thì thấy ngay kẻ ra ứng thí đầu tiên sẽ là âm nhạc hoặc thơ trữ tình :

Nghệ thuật: - tiếng nói tình cảm tư tưởng của con người với con người.

- sự bộc lộc tình cảm, cảm xúc, thái độ của người nghệ sĩ khi tái tạo và đánh giá cuộc sống.

- sự trình bày, giao lưu của người sáng tác, biểu diễn, và sự tiếp nhận bằng tri âm của người cảm thụ.

- dùng những phương tiện cảm tính - những tín hiệu có khả năng biểu hiện, ẩn dụ, đa nghĩa và gợi cảm.

Vậy là không một nghệ thuật nào có thể hơn nhạc và thơ khi thực hiện những đặc trƣng hàng đầu đó của nghệ thuật.

Cũng hỏi thêm vì sao nhạc và thơ làm đƣợc vai trò tiêu biểu đó?

Nghệ thuật là sản phẩm do những nghệ sĩ có tài năng đặc biệt - những thiên tài sáng tạo nên. Âm nhạc và thơ chứng minh rõ nhất điều đó: khi nói về những thần đồng nghệ thuật, người ta đầu tiên chỉ ra trong lịch sử âm nhạc và thơ:

Cha ông xƣa, Trần Hƣng Đạo, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát (thánh Quát)... làm thơ từ tuổi lên 6; ngày nay, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu... 16, 17 tuổi đã có thơ hay. Không nghệ thuật nào có nhiều thần đồng bằng âm nhạc. Hai nhà tâm lý học Đức V.

Heckơ và I. Xiêhen đã nghiên cứu 441 nhạc sĩ và thấy rằng năng khiếu âm nhạc của 401 người (trên 90%) đã bộc lộ trước 10 tuổi.

Từ cội nguồn, nghệ thuật ra đi từ nhạc và thơ, qua bao thế kỷ mở rộng bến

116

bờ sáng tạo, rồi cùng phải quay trở về, không phải với chất liệu xƣa kia mà với những yếu tố siêu chất liệu, đó là hồn nhạc và hồn thơ.

Cũng có thể nói rằng, nơi thân xác của mọi loại hình và loại thể của nghệ thuật đích thực, nghệ thuật đơn tính, đều có mang cái hồn nhạchồn thơ. Và không có một nghệ sĩ đích thực nào dấn thân vào con đường nghệ thuật mà trong mình không mang nặng hồn của nhạc và hồn của thơ.

Hêgel có cho rằng sau thời đại của "nghệ thuật lãng mạn", của nhạc và thơ, thì nghệ thuật sẽ đi vào diệt vong. Nhƣng ở đây, ta có thể nói, không thể có ngày tận thế của nghệ thuật, vì nghệ thuật có mang hồn của nhạc và thơ.

Vậy cho nên, Mai sau dù có bao giờ, thì ta vẫn đinh ninh: Hồn còn mang nặng lời thề.

Vì có nhạc, có thơ.

Vậy đi tìm thước đo để phân biệt nghệ thuật thuần nhất với các hình thức nghệ thuật khác, trước hết nên nghĩ tới nhạc và thơ.

II. Những quy luật đặc trưng và cơ chế của tâm lý sáng tạo

"Cái khó " là ở tâm lý sáng tạo:

Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông (Ca dao)

Tính toàn vẹn của một tác phẩm nghệ thuật đích thực cũng công phu không khác những cuộc vuông tròn, đại sự của con người. Dò tìm được ngọn nguồn của tư duy nghệ thuật sẽ có dữ liệu so sánh một cách hữu hiệu sáng tác thuần nghệ thuật với những hình thức phi nghệ thuật và tiền nghệ thuật.

Những bước phát triển thăng trầm của nghệ thuật, sự xuất hiên những

117

đỉnh cao nghệ thuật không hoàn toàn ăn khớp với sự phát triển xã hội. Nghệ thuật là hình thái ý thức thuộc thƣợng tầng kiến trúc xã hội nhƣng không theo quy luật quyết định chi phối trực tiếp của hạ tầng cơ sở. Điều đó đã đƣợc Mác khẳng định từ lâu. Những suy luận duy vật về lịch sử (hạ tầng cơ sở quyết định thƣợng tầng kiến trúc, thời đại lớn có những biến đổi kinh tế chính trị xã hội sẽ có những thành quả lớn về sáng tạo tinh thần...) rất ít thích hợp với hiện tƣợnơ nghệ thuật. Mác đã nhận xét điều này, và cho đó là cái khó giải thích :

"Đối với nghệ thuật thì những thời kỳ phồn vinh nhất định tuyệt nhiên không tương ứng với sự phát triển chung của xã hội, và do đó cũng tuyệt nhiên không tương ứng với cơ sở vật chất, với xương cốt của tổ chức xã hội, nếu có thể nói như thế được. Ví dụ người Hy Lạp so với người thời nay, hay lại ví dụ như Sếchxpia chẳng hạn"(1a:99).

Mác đã chỉ ra cái khó giải thích khi nền nghệ thuật Hy Lạp cho đến hai nghìn năm sau vẫn còn gây hứng thú và vẫn còn là mẫu mực chưa thể vượt qua được đối với con người hiện đại:

"Nhƣng khó khăn không phải là ở chỗ hiểu đƣợc rằng nghệ thuật Hy Lạp và anh hùng ca gắn liền với những hình thức nào đó của sự phát triển xã hội. Mà khó khăn là ở chỗ hiểu đƣợc rằng hai cái đó còn có thể đem lại cho chúng ta những hứng thú về mặt thẩm mỹ và trên một vài phương diện nào đó, được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước đƣợc" (1A : 102) (LV nhấn mạnh).

Hai đoạn văn này của Mác thường được trích để minh họa cho những lập luận về tính đặc thù của sự phát triển văn học nghệ thuật, về một quy luật riêng nào đó của văn nghệ, cũng là sự chứng minh cho tính mềm dẻo của chủ nghĩa Mác. Vì sao Iliát và Ôđixê của thi sĩ kiêm ca sĩ mù Hômer, sáng tác cách đây gần ba nghìn năm, và những vở bi kịch của Sêchxpia sáng tác cách đây bốn trăm năm, rồi thi phẩm của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, và

118

cả "thơ mới" trước 1945, cho đến hôm nay vẫn là mẫu mực, là những đỉnh cao nghệ thuật.

"Cái khó" giải thích là ở đâu?

"Cái khó " chính là ở đây: ở tâm lý sáng tạo nghệ thuật với những bí ẩn và phức tạp của nó.

Nghiên cứu tư duy sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật là đối tượng thuộc tâm lý học nghệ thuật. Đây chính là phần phong phú và phức tạp nhất trong nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật, cũng chính là chỗ Mác đã cho là "cái khó" nói trên và Vƣgôtxki đã dẫn lời Mác về hiện tƣợng nghệ thuật Hy Lạp để mở đầu cho công trình Tâm lý học nghệ thuật của mình. Về câu:

"Mà khó khăn là ở chỗ hiểu đƣợc rằng hai cái đó còn có thể đem lại cho chúng ta những hứng thứ về mặt thẩm mỹ và trên một vài phương diện nào đó, được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước được"

Vƣgôtxki đã nhận xét: "Đấy là một cách đặt vấn đề tâm lý nghệ thuật hoàn toàn chính xác" (37 : CI)

''Trong điêu khắc người da đen có thể trắng, cũng như trong thơ trữ tình một cảm xúc u buồn có thể thể hiện bằng corê. Nhƣng hoàn toàn không đúng rằng cả hai sự kiện đó đều cần có một sƣ giải thích đặc biệt và sự giải thích này chỉ tâm lý học nghệ thuật mới có thể làm đƣợc mà thôi. (37:CI).(*)

Thí dụ trên của Vưgôtxki làm ta liên tưởng đến thí dụ của Aritxtốt về việc nghệ thuật có thể tả con ngựa phi cùng một lúc cất hai chân bên phải hay tả con hươu cái không có sừng.

Và Vƣgôtxki đã khẳng định:

(*) L.X.Vưgôtxki: nhà tâm lý học Mác xít lỗi lạc, người đầu tiên đưa quan điểm hoạt động về ý thức của Mác vào tâm lý học, mở đầu ngành TLH Mác xít, tác giả của hơn một trăm công trình nghiên cứu. “Tâm lý học nghệ thuật" ra đời từ năm 1924 nhƣng thực sự đƣợc phổ biến từ những năm 60. Ông mất năm 38 tuổi (1896 - 1934). Tâm lý học xã hội khách quan mác xít khoa học di truyền và thực ngiệm mà người xây dựng nền móng là L.X. Vưgốtki, đã xây dựng nên cơ sở phương pháp luận cho lý luận chung về nghệ thuật (22 : Dẫn luận)

119

"...Thiếu đi một công trình nghiên cứu tâm lý chuyên đề chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi, những quy luật nào đang điều khiển các cảm xúc trong tác phẩm nghệ thuật, và chúng ta có thể bất cứ lúc nào, sa vào những sai lầm thô bạo nhất" (37:CI)

Đặc trƣng nghệ thuật không thể là một khái niệm, phạm trù dù khái niệm phạm trù quan trọng đến cỡ nào, nó phải có một cơ chế, nhƣ một guồng máy chuyển động không ngừng có nhiều bộ phận liên kết thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó thể hiện rõ trong cơ chế của tƣ duy nghệ thuật. Tƣ duy nghệ thuật bao gồm cả sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật, nhƣng hai quá trình này khác nhau cả về chủng loại và cơ chế; do đó ở đây cần nói riêng về tƣ duy sáng tạo. Đây là một loại hình tƣ duy đƣợc phân biệt với đối xứng của hai bán cầu đại não và lý thuyết về hai kiểu loại nhân cách (đã nói ở chương I).

Cuối cùng, những cái khó khăn khi lý giải đặc trƣng nghệ thuật đều quy về những vấn đề tâm lý nghệ thuật, quy về nơi ngọn nguồn đầy phức tạp và bí ẩn của sự sống con người.

Tư duy sáng tạo nghệ thuật, là tư duy của người nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ biểu diễn.

Không phải ai cầm cọ cầm bút sáng tác, ai làm diễn viên đều là đối tƣợng của việc nghiên cứu này, mà sự nghiên cứu bao giờ cũng hướng vào những nghệ thuật đích thực, những tài năng thực thụ, vì nghiên cứu khoa học bao giờ cũng tìm đến những điển hình.

Có thể hình dung tƣ duy sáng tạo là cả một guồng máy, bao gồm một hệ thống khái niệm, phạm trù tâm lý sáng tác. Đây là sự trình bày hệ thống theo qui trình: từ ngọn nguồn, sinh thành, nơi xuất phát, là chủ thể, đến một cấu trúc phức tạp của tâm lý, sự thực hành sáng tạo qua thao tác tưởng tượng - hư cấu, để cuối cùng một hình tượng ra đời.

120

Chỉ một câu của Hêgel, từ thế kỷ XIX, mà trong đó có đủ những khái niệm cần thiết để lập thành một hệ thống khái niệm cho tƣ duy sáng tạo nghệ thuật, hơn nữa, đây là những khái niệm đúng nhƣ tâm lý học hiện đại đang sử dụng(*): tình cảm, cảm giác, trực giác, và tưởng tượng, tự do sáng tạo; có cả phần biệt với tư duy khoa học:

"Cái đẹp trong nghệ thuật là nhằm hướng về tình cảm, cảm giác, trực giác và tưởng tượng. Lĩnh vực của cái đẹp khác lĩnh vực tư tưởng và việc lý giải hoạt động nghệ thuật và các sản phẩm của hoạt động ấy đòi hỏi một chức năng khác tƣ duy khoa học. Không những thế, cái chúng ta thưởng thức trong cái đẹp nghệ thuật đó là tính chất tự do của các sáng tác và các hình thức hình tƣợng." ( 14 : IIA. 7)

Guồng máy sáng tạo nghệ thuật hoạt động có tính quy luật(**). Nói cách khác, không qua những quy luật trong guồng máy ấy, nhất thiết không thể trở thành tác phẩm nghệ thuật đích thực. Những tác phẩm tiền nghệ thuật có thể đi bên ngoài, hoặc chỉ đi từng chặng nào đó trong guồng máy đó.

Có một hệ thống phạm trù, khái niệm về tâm lý sáng tạo nghệ thuật, thì cũng có một hệ thống quy luật, lớn và nhỏ, cơ bản và phụ thuộc. Quy luật 1 (chủ thể hóa) hoạt động phải có quy luật 2 (tình cảm - cảm xúc) quy luật 2 hoạt động chuyển thành quy luật 3 (tưởng tƣợng - hƣ cấu). Trong lòng mỗi quy luật có các quy luật cụ thể hơn, đó cũng là những khái niệm tâm lý học. Tất cả đều liên hệ, chuyển hóa, tác động lẫn nhau nhƣ một guồng máy thực sự.

(*) Hiện nay, các thuật ngữ nói về ý thức nghệ thuật trong mỹ học và lý luận văn học chƣa thật thống

nhất và phù hợp với cách dùng trong tâm lý học và triết học. Cảm giác và cảm xúc, tình cảm và cảm tính, tình cảm và cảm xúc, sự phân biệt không thật rõ rệt, có khi dùng lẫn lộn, không nhƣ cách dùng thuật ngữ khoa học.

Đặc biệt cụm từ "tƣ duy nghệ thuật" đƣợc dùng nhiều trong lý luận của Liên Xô và Việt Nam, nếu hiểu đó là một cách nói mang tính qui ƣớc riêng của lý luận mỹ học và nghệ thuật, là có thể chấp nhận, nhƣng nếu hiểu khái niệm tƣ duy nhƣ triết học và tâm lý học thì không đúng, vì tƣ duy chỉ cấp độ nhận thức lý luận trừu tƣợng (khái niệm, phán đoán, suy lý, lý luận), không phù hợp với đặc điểm của ý thức nghệ thuật là thiên về nhận thức cảm tính.

Mục từ "Tư duy nghệ thuật" (TDNT) trong "Từ điển thuật ngữ văn học" (114 : 261) viết: “TDNT là dạng hoạt động trí tuệ của con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật" "Cơ sở của nó là tinh cảm" "Điểm xuất phát TDNT vẫn là lý tính. là trí tuệ có kinh nghiệm, biết nghiền ngẫm và hệ thống hóa các kết quả nhận thức". Với cách định nghĩa đó thì TDNT và tƣ duy khoa học không có gì khác nhau.

(**) Một nhà lãnh đạo rất ít bàn về lĩnh vực nghệ thuật, nhưng là người đầu tiên ở Việt Nam dùng khái niệm “quy luật tình cảm” trong nghệ thuật. Đó là Lê Duẩn: “Nghệ thuật đi theo quy luật tình cảm”.

Một phần của tài liệu phân loại văn học theo chức năng (Trang 114 - 122)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(238 trang)