CHƯƠNG II: CÁC PHƯƠNG THỨC LẬP LUẬN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT
2.2. Phương thức lập luận trong truyện cổ tích
2.2.2 Lập luận bằng các hình thức ngôn ngữ
2.2.2.1 Các hình thức ngôn ngữ thể hiện quan hệ nghịch nhân quả
Các mô hình của hình thức ngôn ngữ này đã được trình bày cụ thể ở chương I, nay chúng tôi sẽ nói thêm về những tác tử đảo hướng lập luận để tạo ra quan hệ nghịch nhân quả.
Tác tử đảo hướng lập luận là “những tác tử mà khi xuất hiện thì chúng thông báo trước rằng luận cứ sắp nêu ra sau đó sẽ dẫn đến một kết luận theo hướng trái ngược với kết luận rút ra từ luận cứ trước đó. Thậm chí, dù sau nó vắng một luận cứ
nhưng ta vẫn nêu ra được một kết luận theo hướng ngược lại bình thường.” [16, 233]
Trong thực tế tất cả những cặp từ phản ánh cấu trúc nghịch nhân quả đều là những tác tử lập luận. Quan hệ nghịch nhân quả phản ánh “những trường hợp ngược với lẽ thông thường” [16, 236]. Do vậy, những cặp từ phản ánh quan hệ nghịch nhân quả đều là những tác tử đảo hướng lập luận.
Sau đây là một số lập luận theo cấu trúc nghịch nhân quả.
VD81: Mặc dầu người chồng bạc bẽo và mặc dầu mười lăm năm xa cách, (nhưng) nàng vẫn không quên được tình xưa nghĩa cũ. Đã nhiều lần nàng thuê người lần đi các chợ búa, phố phường dò hỏi, nhưng tin tức của chồng càng hỏi càng bặt tăm.
(số 90, tr
631) Phần đầu của lập luận theo lẽ thường dễ khiến người đọc rút ra kết luận
người vợ sẽ quên tình cảm vợ chồng trước kia vì “người chồng bạc bẽo” và vì
“mười lăm năm xa cách”, thời gian quá dài; theo lẽ “xa mặt cách lòng”. Nhưng cặp tác tử “mặc dầu… (nhưng)…” đã tạo ra một định hướng lập luận ngược lại: người vợ vẫn không quên được chồng, cho người đi tìm tung tích của chồng.
VD82: Mặc dù ai cũng ghét mụ ngoa ngoắt, (nhưng) người ta vẫn thấy thương con người đã mất gà lại bị đánh, cho nên ai cũng sẽ tay vả nhẹ mỗi người một cái vào má cho xong.
(số 113, tr 778)
Theo lí thông thường ghét thì sẽ đánh đau, đánh mạnh cho bõ ghét. Thế mà trong lập luận này kết luận lại theo hướng ngược lại “…sẽ tay vả nhẹ mỗi người một cái cho xong”. Chính cặp tác tử “mặc dù… nhưng” đã tạo ra điều ấy. Kết luận
được rút ra dựa vào phần sau “nhưng”: “người ta vẫn thấy thương con người đã mất gà lại bị đánh”, phần trước nó không ảnh hưởng gì đến kết luận.
VD83: Tuy biết hắn giàu có, con mình có thể nương tựa, nhưng ông giám sinh không chút bằng lòng vì không những ông không muốn gả con cho người nước ngoài mà ông còn ghét cái thói con buôn cho vay nặng lãi của bọn người như hắn.
(số 82, tr 584)
Từ “tuy” xuất hiện ở vế đầu của câu đã báo cho người đọc biết trước sau nó là điều “ngược với lẽ thông thường”. Thật vậy, lẽ ra ông giám sinh sẽ rất vui mừng gả con gái cho “hắn” vì “hắn giàu có”. Nhưng qua từ “tuy” người đọc biết ngay vế sau của câu sẽ là sự kiện làm luận cứ cho kết luận ngược hướng: ông giám sinh không chút bằng lòng; Vậy có thể ông sẽ không gả con gái cho hắn hoặc có gả cũng là chuyện bất đắc dĩ.
Nhiều khi cặp “tuy… nhưng” có từ “mà” đi sau “nhưng”, khi rút gọn cặp
“tuy… nhưng” và giữ lại từ “mà”, thì từ này trở thành tín hiệu đảo hướng lập luận.
VD84: Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ.
(số 15, tr 175)
Lập luận này có thể khôi phục lại đầy đủ như sau:
(Tuy) ông là ân nhân (nhưng) mà tôi cữ ngỡ là kẻ thù…
Vậy từ “mà” đứng trước vế thứ hai trở thành tín hiệu đảo hướng lập luận.
Chính vì thế rắn rút ra kết luận phải giết Dã tràng để trả thù cho vợ.
Trên đây là một vài ví dụ về những cấu trúc phản ánh quan hệ nghịch nhân quả tiêu biểu. Những cặp từ hoặc từ phản ánh cấu trúc này đều là những tác tử đảo hướng lập luận. Như đã nói ở phần định nghĩa, khi những tác tử này xuất hiện nó
luôn báo trước rằng kết luận được rút ra sẽ là những kết luận theo hướng trái ngược với hướng của kết luận rút ra từ luận cứ trước đó.