Lập luận bằng các phương thức đạt hiệu quả

Một phần của tài liệu lập luận trong truyện dân gian việt nam (Trang 81 - 85)

CHƯƠNG II: CÁC PHƯƠNG THỨC LẬP LUẬN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT

2.2. Phương thức lập luận trong truyện cổ tích

2.2.3 Lập luận bằng các phương thức đạt hiệu quả

Trong lập luận để đạt hiệu quả, đôi khi cũng cần trích dẫn để làm lí lẽ.

Những trích dẫn chính xác là một sự thật không thể chối cãi, khiến mọi người tin tưởng không chút hoài nghi và do vậy tạo cơ sở vững chắc trong lập luận. Tác giả Ngữ dụng học, tập I đã viết: “sự trích dẫn càng chính xác càng tốt, hoặc ít nhất cũng tạo ra ấn tượng về sự chính xác trong trích dẫn cốt để tạo ra hiệu quả đích thực trong lập luận. Hiệu quả đích thực này có thể thông qua lời nói, sự kiện thực tế, qua tri thức…” [18, 247]

VD109: Ba chàng thiện nghệ không quyết định được ai xứng đáng cưới con gái ông già họ Lê. Họ đến nhờ quan phân xử.

Quan phán: trong việc cứu cô gái này, cả ba người đều có công lao ngang nhau, nếu thiếu một người cũng khó mà thành. Nhưng anh thầy thuốc, anh không thể kể công như thế được. Không phải cứ cứu chữa lành cho người ta là đòi lấy người ta làm vợ.

Đối với anh, người được cứu sống phải coi như ân nhân chứ không bắt buộc phải coi như chồng. Còn anh thợ bắn, nếu anh biết rằng nếu không có một người nào lặn ra cứu cô gái thì việc làm của anh chỉ có tính chất báo thù chứ không thể gọi là cứu vớt. Tất nhiên, anh bắn trúng chim chứ không bắn trúng người là có dụng ý tốt.

Nhưng giết chim mà không nghĩ rằng người cũng rơi luôn xuống biển thì dụng ý của anh hãy còn thiếu sót. Vậy đối với anh, cô gái này cũng chỉ coi như một vị ân nhân. Còn anh giỏi lặn , anh là một trong những người cứu cô gái, mà công việc cứu vớt lại bắt buộc anh phải ôm cô gái trong tay suốt buổi. Sách xưa có nói rằng trừ vợ chồng ra thì “nam nữ thụ thụ bất tương thân”. Bây giờ anh đã lỡ gần gũi cô gái đó thì hai người phải được kết duyên với nhau mới hợp lẽ. Tuy nhiên, đối với ân nhân, hai vợ chồng phải nhận họ làm anh em kết nghĩa.

(số 107, tr 741) Vị quan trích dẫn lời người xưa để cho thấy chàng thợ lặn xứng đáng được kết duyên cùng cô gái vì do tính chất công việc của mình chàng trai đã gần gũi với cô gái suốt một thời gian trên biển. Lí lẽ của vị quan thuyết phục được ba chàng thiện nghệ. Họ đều vui vẻ với kết quả phân xử của quan.

VD110: Người bạn Hồ Sinh khi nghe hắn bày tỏ ý mình vội bảo:

- Người ta có câu: “Con trong lừ rưng rưng nước mắt, con ngoài lừ ngút ngoắt muốn vô”. Sao bác không để ruộng lại cày cấy làm ăn, có hơn là phải quỵ lụy để mua cái lo vào người cho khổ?

(số 117, tr 803)

Bạn của Hồ Sinh đã trích dẫn câu nói của người xưa nói về cảnh tù túng chật chội của cá ở trong lừ, đỏ mắt tìm cách ra ngoài để gợi đến hoàn cảnh của những người làm quan từ đó khuyên Hồ Sinh nên từ bỏ ý định chạy chọt để có một chức quan.

VD111: Tùng nói với vợ Mai khi biết người đàn bà này đã bán tóc để có tiền mua đồ tiếp đãi bạn chồng: ““Hàm răng cái tóc là gốc con người”, tôi rất ân hận không được biết trước để ngăn chị dừng bán mất mái tóc quý giá. Nhưng cũng nhờ đấy mà tôi mới biết được tấm lòng vàng của chị…”

(số 180, tr 1404)

Tùng trích dẫn câu thành ngữ “Hàm răng cái tóc là gốc con người”- nói về giá trị của mái tóc, hàm răng đối với mỗi người để làm lí lẽ dẫn đến kết luận: vợ chồng Mai là người tốt, đối xử với bạn chí tình.

2.2.3.2 Phương thức giải thích

+ Giải thích qua những sự kiện thực tiễn, qua nhận thức thực tiễn VD112: Từ Đạo Hạnh phân trần với vua:

- Tâu bệ hạ, nó là tà ma ngoại đạo hiện ra để hãm hại mọi người. Bần tăng không thể ngồi yên mà nhìn để cho tà ma làm loạn cả chính pháp, nên vượt phép bệ hạ trừ bỏ nó đi. Nay việc đã xong, bần tăng xin cuối đầu chịu tội.

(số 120, tr 832) Từ Đạo Hạnh giải thích sở dĩ mình vượt phép vua giết chết Giác Hoàng vì dựa vào những sự kiện thực tiễn Giác Hoàng là tà ma ngoại đạo, Từ Đạo Hạnh phải bảo vệ chính pháp.

+ Giải thích theo tam đoạn luận, theo các quy luật suy diễn trong logic hình thức

VD113: Hòa thượng nghĩ bụng: “Chỉ có thiên tử mới sai khiến được Phật. Đứa bé này đã sai khiến được Phật hẳn sẽ có ngày làm vua. Nếu ta không báo lên quan trên một mai họ truy nã, tất ta sẽ mang lỗi”.

(số 104, tr 724)

Trong lập luận này tiền đề 1 a -> b: chỉ có thiên tử mới sai khiến được Phật;

tiền đề 2 a: đứa bé này sai khiến được Phật, kết đề b: hẳn sẽ có ngày làm vua.

+ Giải thích theo ngữ dụng

VD114: Thủ Huồn hỏi quan cai ngục:

- Thế vợ hắn có cùng đeo gông không hả ông?

- Ồ! Ai làm người ấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi.

(số 30, tr 264) 2.2.3.3 Phương thức dung câu hói và chất vấn

Kiểu lập luận này được con người sử dụng từ rất lâu. Câu hỏi và chất vấn được dùng để nhấn mạnh và gây hiệu quả tốt hơn trong lập luận. Các tác giả dân gian của truyện cổ tích cũng không loại trừ cách lập luận này.

VD115: Nàng dâu lỡ tay giết chết con gà rất quý của chồng, mà người chồng vốn dĩ cộc tính, nên rất lo sợ. Thấy thế mẹ chồng an ủi:

- Con đừng lo để mẹ nhận là mẹ ném cho. Chả lẽ nó lại ăn thịt mẹ nó hay sao?

(số 49, tr 398) Thay vì phủ định ý kiến con ăn thịt mẹ, người mẹ đã dùng cách chất vấn để bác bỏ ý kiến đó một cách mạnh mẽ.

VD116: Quận công họ Điền nghe thủy thủ bảo phải cúng Thủy thần để được yên ổn hàn khúc đê vỡ đã trừng mắt bảo:

- Ta đây phụng mệnh vua đi làm việc nước. Dù hắn là thần đi chăng nữa dám cản ta ư? (số 71, tr 537)

Câu chất vấn của quận công nhằm bác bỏ ý kiến của bọn thủy thủ là Thủy thần có thể sẽ phá không cho họ hàn lại đoạn đê vỡ.

Một phần của tài liệu lập luận trong truyện dân gian việt nam (Trang 81 - 85)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(165 trang)