Lập luận bằng các từ tình thái

Một phần của tài liệu lập luận trong truyện dân gian việt nam (Trang 85 - 88)

CHƯƠNG II: CÁC PHƯƠNG THỨC LẬP LUẬN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT

2.2. Phương thức lập luận trong truyện cổ tích

2.2.4 Lập luận bằng các từ tình thái

Các từ tình thái đặc thù tạo nên những hàm ngôn và giúp người nghe hiểu được mục đích nói thực sự của người lập luận.

Từ tình thái là những từ mà khi chúng xuất hiện trong câu sẽ khiến câu có ý nghĩa tình thái (biểu thị thái độ đánh giá của người nói đối với điều đang được trình bày).

Một số từ tình thái xuất hiện trong lập luận của truyện cổ tích.

- Đâu: vốn là đại từ dùng để hỏi về nơi chốn (Bây giờ anh muốn đi đâu?) có thể chuyển sang làm một đại từ phiếm chỉ về địa điểm (Đi đâu cũng được.).

Nhưng trong loại câu “hỏi” thể hiện hành động bác bỏ “đâu” là “từ biểu thị ý phủ định về điều mà người nói muốn khẳng định dứt khoát là không hề có, không hề xảy ra, không như người đối thoại đã hoặc có thể nghĩ” (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê 1996).

VD117: Chúng tôi sang đây đòi nợ chứ có phải đi chơi đâu mà không cho vào.

(số 66, tr 499)

Người nói đã dùng từ đâuđể bác bỏ ý nghĩ cho rằng họ sang đây không có lí do gì chính đáng.

- Mà: “từ biểu thị điều sắp nêu ra là không phù hợp với điều vừa nói đến, có gì trái với lẽ thường”. (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê 1996). Khi tham gia vào kiểu cấu trúc câu “hỏi”, nó cũng thể hiện sự phản đối của người nói đối với ý kiến được trình bày trước đó.

VD118: Tôi có của lại không giữ được hay sao? Không phải phiền ông làm gì.

(số 76, tr 550)

VD119: Em bé vào cung khóc ầm ĩ, khi được hỏi lí do, nó bảo bố nó không đẻ em chơi với nó.

Vua phán: - Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực làm sao đẻ được!

Em bé trả lời: - Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành 9 con để nộp đức vua. Giống đực thì làm sao đẻ được kia chứ!

(số 80, tr 566) Tất cả các từ mà ở trên đều được người nói dùng để phản đối lại ý kiến của đối phương.

- Chỉ: một từ tình thái chuyên tạo cho câu một hàm ý đánh giá về lượng. “Từ biểu thị phạm vi được hạn định, không có gì thêm hoặc không có gì , không có ai khác hơn nữa”. (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê, 1996) Vì vậy nó còn có một ý nghĩa nữa là “ít”. Các nhà ngữ pháp học lại xem “chỉ” là tiểu từ tình thái có chức năng nhấn mạnh.

VD120: Khi được hỏi biết làm gì để thuê mướn, người ăn mày trả lời:

- Xin ông bẩm với bà lớn rủ lòng thương cho tôi được ở hầu hạ bà, rửa bát, quét nhà, mọi việc tôi đều xin hết sức. Chỉ cho tôi ăn ba miếng là đủ rồi.

(số 90, tr 633)

Từ “chỉ” nhấn mạnh đến yêu cầu trả công “thấp”, thể hiện sự thiết tha được làm việc để có miếng ăn của người nói.

VD121: Heo nghe quan nói nghĩ bụng:

- Cái thứ người chỉ mới có ba cái nốt ruồi vặt, đã làm gì mà nhặng lên thế.

(số 104, tr 722)

Ở lập luận này “chỉ” nhấn mạnh đến số lượng ít của nốt ruồi để từ đó khẳng định tướng quan chưa thật sự quý, không việc gì phải “nhặng lên” như vậy.

- Những: thể hiện “sự đánh giá nhiều về đối tượng được đề cập tới so với mức thông thường hoặc trong một quan hệ đối chiếu nào đó.” (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê, 1996)

VD122: Anh học trò thợ đúc khuôn nói:

- Thưa thầy tuy con mới học được võ vẽ, nhưng cũng làm dễ lắm, mà lại được nhiều tiền. Mỗi chuyến thầy làm nhiều lắm cũng bốn, năm quan. Nhưng mỗi chuyến thầy cũ của con làm thì được những một, hai trăm quan là thường.

(số 122, tr 855)

Qua đây, chúng ta thấy rõ vai trò quan trọng, tác dụng, giá trị của từ vựng trong việc tạo câu, xây dựng lập luận, đặc biệt là những hư từ vốn thường bị xem nhẹ hơn các thực từ. Chúng là những viên gạch góp phần tạo nên một kiểu kiến trúc câu hoàn chỉnh, chuyển tải được các tầng nội dung, thực hiện được hết những ý đồ sâu xa của người nói.

Ở trên chúng tôi đã khảo sát, phân tích và phân loại các lập luận có trong 200 truyện cổ tích Việt Nam. Từ đây chúng tôi sẽ có những nhận xét khái quát bước đầu và nêu ra một số kết luận cần thiết để làm cơ sở cho việc so sánh phương thức lập luận trong truyện cổ tích với phương thức lập luận của một số thể loại khác.

Một phần của tài liệu lập luận trong truyện dân gian việt nam (Trang 85 - 88)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(165 trang)