Cấu trúc ngôn ngữ có chức năng tăng cường luận cứ

Một phần của tài liệu lập luận trong truyện dân gian việt nam (Trang 71 - 74)

CHƯƠNG II: CÁC PHƯƠNG THỨC LẬP LUẬN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT

2.2. Phương thức lập luận trong truyện cổ tích

2.2.2 Lập luận bằng các hình thức ngôn ngữ

2.2.2.2 Cấu trúc ngôn ngữ có chức năng tăng cường luận cứ

Trong lập luận để thuyết phục, giành chiến thắng trước đối phương người nói đôi khi phải dùng nhiều luận cứ. Những luận cứ đó trong trường hợp này là “cùng hướng”, luận cứ này bổ sung cho luận cứ kia, tạo thành một chuỗi luận cứ. Trong truyện cổ tích kiểu lập luận này được sử dụng khá nhiều.

VD85: Ban đầu hắn ngần ngại chối từ cả lễ lạt của những người có việc đưa đến lo lót, nhưng dần dần hắn bạo dạn và khôn ngoan hơn. Chẳng những hắn thành thạo trong nghề bóp nặn mà còn học được nhiều mánh khóe làm tiền kì lạ là tạo ra những vụ án bất ngờ mà kết quả là cả nguyên cáo lẫn bị cáo tiền bạc xủng xoẻng dắt nhau đến công đường đút cho hắn và quan trên của hắn.

Vì thế, chỉ trong ba năm, tiền của của hắn bộn bề, hắn làm nhà tậu ruộng và sống cuộc đời xa xỉ hơn trước.

(số 117, tr 804)

Người kể chuyện đã lập luận theo cấu trúc “chẳng những A mà còn B”; cấu trúc này đồng nghĩa với cấu trúc “Đã A lại B” , “Đã A mà lại B” về căn bản.

Luận cứ “hắn thành thạo trong nghề bóp nặn” và luận cứ “học được nhiều mánh khóe làm tiền kì lạ là tạo ra những vụ án bất ngờ mà kết quả là cả nguyên cáo lẫn bị cáo tiền bạc xủng xoẻng dắt nhau đến công đường đút cho hắn và quan trên của hắn” trong cấu trúc này đồng hướng nghĩa để dẫn đến kết luận “Chỉ trong ba năm … sống cuộc đời xa xỉ hơn trước”.

VD86: trở lại ví dụ 77 “Tuy biết hắn giàu có, con mình có thể nương tựa, nhưng ông giám sinh không chút bằng lòng vì không những ông không muốn gả con cho người nước ngoài mà ông còn ghét cái thói con buôn cho vay nặng lãi của những người như hắn”.

Luận cứ “ông còn ghét…như hắn” bổ sung nghĩa cho luận cứ đứng trước

“không muốn gả con cho người nước ngoài” để đi đến kết luận được đặt ở đầu lập luận “Ông giám sinh không chút bằng lòng”. Đây cũng là một cách lập luận theo sự giải thích mà chúng tôi sẽ bàn đến ở phần sau trong chương này. Hai luận cứ giải thích theo kiểu ngữ dụng để giúp người đọc hiểu lí do ông giám sinh không vui khi

“hắn” đến dạm hỏi con gái ông dù ông biết rõ nếu con mình về nhà “hắn” thì sẽ được nương nhờ tấm thân.

VD87: Vua Hùng Vương lí giải vì sao bánh do Lang Liêu làm được giải nhất và ông nhường ngôi cho Lang Liêu.

“Nó chẳng những ngon và quý mà còn mang nhiều ý nghĩa đặc biệt: nó bày tỏ lòng hiếu thảo của con người, tôn cha mẹ như trời đất; Nó chứa đầy một tấm tình quê hương ruộng đồng. Nó rất dễ làm vì làm bằng những hạt ngọc quý giá nhất trong những hạt ngọc của Trời Đất, nhưng mà những hạt ngọc ấy mọi người đều làm ra được. Phải là người có tài mới nghĩ ra được loại bánh như vậy.”

(số 24, tr 230)

Hai luận cứ “ngon và quý”; “nó bày tỏ…đều làm ra được” bổ sung cho nhau, đồng hướng nghĩa để nhà vua dễ dàng đi đến kết luận “Phải là … như vậy”. Người dự thi cũng dễ chấp nhận Lang Liêu là người xứng đáng được nhường ngôi báu.

VD88: Hổ chỉ vào cái bẫy cải biến:

- Làm gì có chuyện đó. Tôi đang ngủ yên lành trong kia thì bị tên này ở đâu đến quấy nhiễu. Không những nó không cho tôi nghỉ ngơi mà còn tìm cách hại tôi.

Vì thế, tôi phải ăn thịt nó để trả thù.

(số 160, tr 1233)

Hổ đã dùng cách lập luận tăng cường luận cứ để cho thấy anh học trò cùng lúc phạm hai tội, mà tội sau nặng hơn tội trước nên không thể tha thứ được. Hổ chỉ còn cách “ăn thịt” để “trả thù”.

Ngoài ra người ta còn sử dụng các cấu trúc như “A, vả B”, “A, vả lại B”,

“Hơn nữa, A”,… để lập luận đạt sức thuyết phục.

VD89: Cụ đồ phân tích cho Trần Lực và Lê Đô nghe ai là người xứng đáng cưới cô gái làm vợ.

Trước hết cụ hỏi: Có hai con mèo, một con chuyên ăn vụng của nhà, còn một con chuyên ăn vụng của xóm giềng. Cả hai đều ăn vụng được luôn và lần nào cũng trót lọt. Vậy hai người thử nghĩ cho kĩ xem con nào tài hơn?

Hai người đều cho con mèo ăn vụng của nhà tài hơn.

Cụ đồ nói tiếp: Vậy thì trong hai người đây có tài giỏi hơn phải là người đã dùng mưu thường xuyên bắt chủ phải theo ý mình. Chứ còn thỉnh thoảng đi ăn trộm được vài nhà sơ ý thì đâu phải là chuyện khó. Vả lại cũng chả hay hớm gì khi đem tài trí ra để chiếm đoạt của cải người khác. Cho nên tôi cho rằng anh Đô nên nhường bước cho anh Lực mới phải.

(số 106, tr 737)

Đây chính là một lập luận theo cấu trúc “A. Vả lại B”. Cả hai luận cứ “Vậy trong hai người… chuyện khó”, và “cũng chả hay hớm gì…người khác” đồng hướng, luận cứ sau bổ sung cho luận cứ trước để cụ đồ rút ra kết luận “…anh Đô nên nhường bước cho anh Lực thì mới phải”.

VD90: Người đàn bà nọ vốn được nghe chồng ca ngợi về lòng tốt của Giáp.

Vả đang cơn túng thiếu, nên nghe nói thế thì không mảy may nghi ngờ, bèn theo hắn sang nhà.

(số 183, tr 1453)

Ở đây người kể chuyện đã sử dụng hai luận cứ. Luận cứ thứ nhất “người đàn bà nọ vốn đã được nghe chồng ca ngợi về lòng tốt của Giáp”; luận cứ thứ hai “đang cơn túng thiếu”. Hai luận cứ này bổ sung cho nhau, hổ trợ cho nhau để đi đến một kết luận. Tác tử “vả” có nhiệm vụ thể hiện sự đồng hướng nghĩa đó.

VD91: trở lại ví dụ 48

Lời phán của quan: “Giỗ là giỗ ông bà nhà nó, không lẽ nó lại thất lễ với ông bà. Hơn nữa hai bảy không nhất thiết phải là mười bốn, cũng có khi hai bảy mười ba kia đấy. Này hãy ngước mắt nhìn những đường đòn tay trên mái công đường mà xem. Mái trước bảy đường, mái sau cũng bảy đường. Vậy mà hai bảy chỉ có mười ba thôi. Đó, cả vợ lẫn chồng hãy mở to con mắt ra thử đếm xem có đích là hai bảy mười ba không?”

Ngoài cách sử dụng lí lẽ dựa vào những điều tận mắt chứng kiến vị quan còn dùng cấu trúc “Hơn nữa A” để lời phán quyết của mình tăng sức thuyết phục. Luận cứ đầu dùng lí lẽ theo đạo đức. Luận cứ này được hỗ trợ bởi luận cứ sau dùng lí lẽ dựa theo những điều tận mắt chứng kiến. Tác tử “hơn nữa” thể hiện rõ sự đồng hướng nghĩa giữa hai luận cứ.

Một phần của tài liệu lập luận trong truyện dân gian việt nam (Trang 71 - 74)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(165 trang)