Hoạt động dạy học/ giáo dục/ đào tạo

Một phần của tài liệu Quản lý hoạt động đào tạo ở học viện trong bối cảnh hiện nay (Trang 28 - 34)

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, HỌC VIỆN

1.2. Một số khái niệm công cụ của đề tài

1.2.4. Hoạt động dạy học/ giáo dục/ đào tạo

Dạy học là một hoạt động tương tác giữa thầy và trò, giữa người dạy và người học, là quá trình truyền lại những kiến thức kinh nghiệm, đưa đến những thông tin khoa học cho người khác tiếp thu một cách có hệ thống, có phương pháp nhằm mục đích tự nâng cao trình độ văn hoá năng lực trí tuệ và kỹ năng thực hành trong đời sống thực tế. Bởi vậy, quá trình dạy học chỉ đạt được hiệu quả cao khi có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa giáo viên và học sinh trên tất cả các khâu của quá trình dạy học. Trong mối quan hệ giữa dạy và học, người dạy đóng vai trò định hướng, gợi mở, cung cấp chỉ dẫn những điều cần thiết về mục tiêu, nội dung, phương pháp học tập... Phù hợp với người học, còn người học tự mình xác định, lựa chọn những điều được cung cấp sao cho phù hợp với năng lực, sở trường, điều kiện riêng của mình để hoàn thành tốt nhất yêu cầu của chương trình quy định [86].

1.2.4.2. Hoạt động giáo dục

Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.

Nhờ có giáo dục, những hiểu biết, những năng lực và phẩm chất cần thiết cho cuộc sống của từng thành viên cũng như của toàn thể cộng đồng của thế hệ trước được truyền lại cho thế hệ sau, đây cũng là điều kiện để xã hội tồn tại và phát triển. Trong lịch sử, việc truyền lại những hiểu biết, năng lực và phẩm chất, tức là giáo dục được tiến hành theo các phương thức sau đây:

- Phương thức kèm cặp, tức là luyện tập ngay trong cuộc sống

- Phương thức giáo dục bằng dư luận, bằng các hình thức văn học nghệ thuật, phong tục tập quán, thông tin tuyên truyền...

- Phương thức giáo dục có trường lớp, có chương trình, có người dạy và người học xác định, có thời gian xác định cho quá trình dạy và học.

Giáo dục theo nghĩa rộng bao gồm cả ba phương thức giáo dục nói trên. Còn giáo dục theo nghĩa hẹp là giáo dục theo phương thức thứ ba. Cùng với sự phát triển của lịch sử, phương thức giáo dục này ngày càng phát triển và trở thành bộ phận chủ yếu trong hoạt động giáo dục của xã hội. Cũng vì vậy khi nói đến giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp hay giáo dục đại học người ta nói đến giáo dục theo trường lớp với một chương trình học xác định, ở đó có người được phân công để dạy, có người đến để làm nhiệm vụ học tập [26].

1.2.4.3. Hoạt động đào tạo

Đào tạo “là quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những kinh nghiệm, những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [86, tr. 76].

Hoạt động đào tạo là hoạt động truyền thụ kiến thức, huấn luyện kỹ năng, giáo dục thái độ nhằm giúp người học chiếm lĩnh được một năng lực nghề nghiệp hoặc một năng lực liên quan đến những mặt khác của cuộc sống.

Hoạt động đào tạo về cơ bản đồng nghĩa với hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp. Nhưng trong một ý nghĩa hẹp hơn, hai khái niệm “giáo dục” và

“đào tạo” có sự phân biệt nhau. Đào tạo là quá trình giáo dục với những chương trình, mục tiêu, phương pháp quy trình cụ thể, gắn với từng bậc học, từng loại hình đào tạo cụ thể. Còn “giáo dục” có ý nghĩa chung hơn, phản ánh quá trình truyền thụ lĩnh hội tri thức của loài người, qua đó làm biến đổi nhân cách. Phạm trù giáo dục được áp dụng cho mọi bậc học từ giáo dục mầm non cho đến giáo dục đại học, sau đại học, còn phạm trù đào tạo chủ yếu được sử dụng cho bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề trở lên có nhiệm vụ đào tạo những người đi sâu vào một nghề cụ thể, một loại công việc chuyên môn nhất định, khác với giáo dục phổ thông có nhiệm vụ đào tạo người công dân, người lao động phổ thông có những hiểu biết, năng lực và phẩm chất thông thường cần thiết để sống và làm việc trong những điều kiện bình thường chung cho mọi người trong xã hội.

Hoạt động đào tạo có nội dung rộng hơn và bao gồm trong đó hoạt động dạy học. Hoạt động đào tạo không những chỉ trong mối quan hệ giữa người dạy và người học mà còn cả trong hệ thống các mối quan hệ của người dạy, người học với cả xã hội.

Hoạt động đào tạo/giáo dục hay dạy học nói chung đều bao quát sáu vấn đề:

- Đào tạo nhằm mục đích gì? (Mục tiêu đào tạo) - Đào tạo ai? ( Đối tượng đào tạo)

- Ai đào tạo? (Chủ thể đào tạo) - Đào tạo cái gì? (Nội dung đào tạo)

- Đào tạo bằng cách nào? (Phương thức đào tạo)

- Đào tạo bằng phương tiện gì? (Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo)

Sáu vấn đề cơ bản trên có mối quan hệ phụ thuộc vào nhau, chi phối lẫn nhau và làm điều kiện cho nhau. Chúng không tồn tại riêng mà kết hợp với nhau, cùng vận động trong một chỉnh thể thống nhất, cùng tồn tại và chỉ tồn tại trong một hệ thống đưa người học từ trạng thái chưa đạt mục tiêu đến đạt mục tiêu ngày càng tốt hơn.

Trong các yếu tố cơ bản của hoạt động đào tạo, yếu tố mục tiêu quy định các chuẩn mực phải đạt được, năm yếu tố cơ bản còn lại của hoạt động đào tạo hợp thành các điều kiện, các phương tiện để thực hiện các chuẩn đó.

Tính hiện thực, tính khả thi của mục tiêu đào tạo được đo bằng số lượng và chất lượng của năm yếu tố còn lại có phù hợp với mục tiêu đào tạo hay không. Trong các yếu tố cấu thành khả năng biến mục tiêu đào tạo thành hiện thực thì có hai yếu tố cơ bản nhất là yếu tố người dạy (chủ thể đào tạo) và yếu tố người học (đối tượng đào tạo). Chúng tạo ra động lực của sự đào tạo, giáo dục, dạy học. Các yếu tố khác chỉ phát huy tác dụng trong chừng mực chúng được sử dụng thông qua người dạy và người học. Trong hai yếu tố người dạy và người học thì tính tự giác và hơn nữa là sự ham mê của người thầy trong việc dạy và của người học trong việc học là điều then chốt quyết định chất lượng của đào tạo. Tính tự giác và sự ham mê này một phần là do bản thân người dạy và người học tự tạo ra cho mình, nhưng một phần không kém quan trọng là được tạo ra gián tiếp hay trực tiếp bởi tính chất và đặc điểm của xã hội trong đó họ sống và dạy hay học nói chung và bởi các chính sách của xã hội có liên quan.

Hoạt động đào tạo với hạt nhân là công việc dạy học diễn ra theo quy trình:

Trên thế giới có 2 loại mô hình tiêu biểu trong cách tổ chức quy trình giảng dạy đại học: Mô hình châu Âu cổ điển với các lớp học theo một chương trình chung nhất loạt cho mọi người và mô hình Bắc Mỹ với chương trình cấu trúc theo các mô đun đa dạng, từng sinh viên có thể lựa chọn chương trình học

riêng phù hợp với khả năng và điều kiện bản thân. Ở Việt Nam, cho đến nay, về cơ bản vẫn đang áp dụng mô hình thứ nhất, mô hình học chế theo niên chế.

Tuy nhiên, hiện nay các Trường đại học trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang có xu hướng chuyển sang đào tạo theo mô hình thứ 2 - mô hình đào tạo theo học chế tín chỉ. Mô hình này có các đặc trưng cơ bản như:

- Cho phép người học đạt được văn bằng đại học qua việc tích luỹ các loại tri thức giáo dục khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định gọi là tín chỉ.

- Học chế tín chỉ đòi hỏi nội dung chương trình phải được cấu trúc thành các mô đun, được gọi là học phần. Phần lớn học phần phải được giảng dạy trọn vẹn và phải phân bổ đều trong các học kỳ.

- Học viên được đăng ký ngành học, môn học thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ và phù hợp với quy định chung. Sự lựa chọn các môn học là rất rộng rãi.

- Việc đánh giá kết quả học tập được thực hiện thường xuyên và dựa vào sự đánh giá đó đối với các môn học tích luỹ để cấp bằng tốt nghiệp.

Học chế tín chỉ có những ưu điểm cơ bản như:

- Cho phép người học chủ động xây dựng kế hoạch thích hợp nhất, phù hợp với năng lực và hoàn cảnh của bản thân.

- Khuyến khích người học từ nhiều nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học tập đại học một cách thuận lợi, là một trong những công cụ quan trọng để chuyển từ nền đại học mang tính tinh hoa sang nền đại học mang tính đại chúng.

- Cho phép học viên dễ dàng thay đổi ngành chuyên môn trong quá trình học tập khi thấy không cần thiết mà không phải học lại từ đầu.

- Cho phép mở thêm ngành đào tạo mới được dễ dàng hơn khi nhận thấy có nhu cầu của thị trường và tình hình lựa chọn nghề của người học.

- Học chế tín chỉ thường sử dụng phương pháp dạy phát huy tính tích

bài học dưới sự hướng dẫn của giáo viên hơn là việc tiếp thu thụ động các kiến thức được người thầy truyền thụ trên lớp.

- Ngoài ra hệ thống học chế theo tín chỉ còn tạo khả năng đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo.

1.2.4.4. Chương trình đào tạo.

Theo từ điển Giáo dục học, khái niệm chương trình đào tạo được hiểu là:

“Văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục đào tạo” [86, tr 54].

Chương trình đào tạo là một bản thiết kế tổng thể các hoạt động của quá trình đào tạo cho một khóa học hoặc một loại hình đào tạo nhất định, trong đó xác định rõ mục tiêu chung, các thành phần, nội dung cơ bản, phương pháp đào tạo, hình thức tổ chức, lịch trình đào tạo tổng thể, cũng như các yêu cầu về kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo trong quá trình và kết thúc khóa học [25, tr 217].

1.2.4.5. Chất lượng đào tạo

Chất lượng là “ Cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật” hoặc là: “Cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác với sự vật kia” [87].

Chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ thể [25]. Theo Lê Đức Ngọc và Lâm Quang Thiệp:

Chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đã đề ra đối với một chương trình đào tạo. [32, tr 295].

Một phần của tài liệu Quản lý hoạt động đào tạo ở học viện trong bối cảnh hiện nay (Trang 28 - 34)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(242 trang)