Những bất cập hạn chế

Một phần của tài liệu Quản lý hoạt động đào tạo ở học viện trong bối cảnh hiện nay (Trang 116 - 125)

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

2.4. Đánh giá về quản lý hoạt động đào tạo ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

2.4.2. Những bất cập hạn chế

Thứ nhất, về quản lý chương trình giảng dạy

- Nhìn chung chương trình chưa phản ánh đầy đủ các yêu cầu của mục tiêu đào tạo. Chương trình cao cấp lý luận chính trị có 18 học phần và 2 báo cáo chuyên đề thể hiện tính chất dàn trải, vẫn còn trùng lặp, được áp dụng như nhau ở tất cả các cơ sở đào tạo.

Ngoại trừ chương trình thí điểm, chương trình đang triển khai nội dung đào tạo vẫn còn trùng lặp, thể hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:

+ Trùng lặp giữa các nội dung môn học: Điều này có nguyên nhân từ phía một số giảng viên không bám sát đối tượng, góc độ nghiên cứu của môn học, song nguyên nhân cơ bản là từ phía biên soạn nội dung chương trình các bài giảng vốn có sự trùng lặp mà giảng viên phải tuân theo.

+ Trùng lặp giữa các nội dung bài giảng trong cùng môn học: Nguyên nhân của tình trạng này trước hết là ở nội dung giáo trình được cấp có thẩm quyền biên soạn và chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên, cũng do một số khoa giảng dạy chưa thực sự làm chủ nội dung chương trình giảng dạy các môn học của

mình với sự thống nhất chặt chẽ giữa các bài giảng của các giảng viên nhằm hạn chế, khắc phục sự trùng lặp đó.

- Các chương trình vẫn còn nặng về lý thuyết nhẹ về thực hành rèn luyện kỹ năng, nặng về yêu cầu truyền đạt tri thức nhẹ về bồi dưỡng năng lực lãnh đạo, quản lý của người cán bộ hiện tại. Mục tiêu là đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý nhưng nội dung về nghiệp vụ và năng lực tổ chức sáng tạo của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên nghiệp, hầu như chưa rõ trong kết cấu tổng thể của chương trình. Bởi vậy, sau khi tốt nghiệp, thu hoạch chủ yếu của người học chỉ là tri thức lý luận, tuy cần song chưa đủ có thể trở thành người cán bộ lãnh đạo và quản lý có năng lực hành động trong thực tiễn công tác luôn biến đổi không ngừng.

- Nội dung các chương trình ở từng học phần cụ thể không tương thích với yêu cầu triển khai thực hiện phương pháp giảng dạy mới. ổ chức xây dự

, chưa quan tâm đúng mức đến việc ng.

Tóm lại, chương trình chưa bổ sung kịp thời những yêu cầu cấp bách của thời đại kinh tế tri thức, yêu cầu của CNH và HĐH đất nước trong xu hướng dân chủ hóa và yêu cầu đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của hệ thống chính trị. Nói cách khác, chương trình đào tạo của Học viện hiện nay vẫn chưa thực sự quán triệt phương châm “Giảng những cái mới người học cần chứ không phải chỉ giảng những cái giảng viên có”.

Thứ hai, về quản lý phương pháp giảng dạy

- Phương pháp truyền thụ, chuyển tải kiến thức đến học viên mặc dù rất được quan tâm đổi mới theo hướng hiện đại, nhưng cho đến nay chủ yếu vẫn nặng về thuyết trình, độc thoại một chiều.

- Quy trình và phương pháp giảng dạy không khác nhiều so với hàng chục năm trước, vẫn là, thầy soạn giáo án, đề cương bài giảng, lên đứng bục

thuyết trình (có giải thích, mở rộng), trò ghi chép, về học thuộc (có thể tham khảo giáo trình, tài liệu chút ít).

- Thời gian giảng lý thuyết nhiều hơn thời gian thảo luận, đối thoại.

Thời gian đi thực tập, học tại cơ sở thực tế còn rất hạn chế. Chưa có cơ chế để tăng cường và kiểm soát tự học, tự nghiên cứu của học viên.

Nói chung, phương pháp giảng dạy hiện nay của HV chưa thực sự tạo được hứng thú và phát huy tính tích cực của học viên, chưa phù hợp với khoa học giáo dục hiện đại.

Thứ ba, về phát triển và quản lý giảng viên

Đội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, nhất là thiếu tri thức kinh nghiệm về thực tiễn lãnh đạo, quản lý trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Cụ thể:

- Số lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và NCKH của Học viện hiện nay còn thiếu so với chức năng, nhiệm vụ, đặc biệt là cán bộ giảng dạy có kinh nghiệm. Điều này thể hiện ở chỗ tổng số cán bộ khoa học có học hàm, học vị còn chiếm tỷ lệ rất thấp và có xu hướng giảm.

- Về cơ cấu cũng còn nhiều điểm chưa hợp lý cả trình độ, về tuổi, về giới tính, về ngành nghề. Sự phân bố đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ có trình độ cao giữa Trung tâm HV và các HV thành viên, giữa các đơn vị trong nội bộ HV còn chưa cân đối. Có những đơn vị tập trung tương đối đông cán bộ có học hàm, học vị, nhưng ngược lại, nhiều đơn vị đang thiếu trầm trọng cán bộ giảng dạy phải mời ở bên ngoài. Chưa sử dụng tốt đội ngũ giảng viên kiêm chức, các chuyên gia hàng đầu có học hàm, học vị, hiện đang đảm nhận những cương vị quan trọng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước.

- Trong công tác giảng dạy, nhìn chung đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện đã có nhiều cố gắng vươn lên đáp ứng yêu cầu đặt ra ngày càng cao từ phía Học viện. Tuy nhiên, một số cán bộ giảng dạy còn tỏ ra chưa thật vững về trình độ chuyên môn, thiếu tri thức thực tiễn, nhất là những tri thức

liên quan đến vấn đề giảng dạy, còn yếu về kỹ năng, phương pháp giảng dạy dẫn đến sự nhàm chán đối với một số học viên.

- Một bộ phận cán bộ giảng dạy trong thời gian dài chỉ sử dụng một phương pháp giảng dạy duy nhất là phương pháp thuyết trình cho mọi đối tượng học viên, cộng với việc ít cập nhật thông tin và tri thức mới nên bài giảng còn nặng về "sách vở”, thông tin đưa ra trùng lặp, chồng chéo, tính thuyết phục và hiệu quả chưa thật cao. Chính điều này tạo ra sự ỷ lại từ phía học viên, không phát huy được tính chủ động, năng động và sáng tạo trong học tập.

- Trình độ ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh của nhiều cán bộ giảng dạy và NCKH của Học viện còn hạn chế, nên gặp nhiều khó khăn trong mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên lĩnh vực giảng dạy, NCKH. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin và tri thức toàn cầu thì ngoại ngữ chính là chìa khóa vàng để khai thác tối đa, nhanh chóng tri thức mới, những thành tựu của nhân loại phục vụ cho giảng dạy. Một số cán bộ vẫn chưa làm chủ được các phương tiện kỹ thuật hiện đại nhằm hỗ trợ công tác giảng dạy như sử dụng máy vi tính, máy chiếu Projector…

Thứ tư, về quản lý học viên

- Cách thức quản lý còn chưa thật phù hợp với đặc thù của người học là cán bộ lãnh đạo, quản lý; mặ (nhất là hệ tại

chức) nên việc quản lý học viên ở nhiề ỏ ặt

chẽ .

- Quy trình tuyển sinh tuy được cải tiến, đổi mới song vẫn còn thiếu sự thống nhất, nhiều khâu trong quy trình tuyển sinh làm chưa tốt…

- Việc đánh giá kết quả học tập của học viên chưa thật chính xác, trong đó có nhiều khâu liên quan: hình thức thi, ra đề thi, chấm thi, chấm tiểu luận và luận văn tốt nghiệp… việc ra đề của nhiều đơn vị khoa chậm thay đổi,

chưa phản ánh được sự khái quát có tính lý luận cao và tính đa dạng của thực tiễn cuộc sống. Học viện chưa có ngân hàng đề thi chung cho toàn hệ thống và ít khi sử dụng đề thi trắc nghiệm. Công tác tổ chức thi còn chưa thực sự nghiêm túc. Việc tổ chức thi hết môn còn bị xem nhẹ. Kết quả điểm thi còn quá cao, nên khi đánh giá tốt nghiệp số học viên đạt giỏi và xuất sắc chiếm tỷ lệ quá cao (nhiều lớp chỉ có giỏi và xuất sắc) là không phản ánh chính xác thực chất trình độ của học viên. Việc đánh giá kết quả học tập chủ yếu được thực hiện khi kết thúc môn học và cuối khóa dẫn đến tình trạng có những học viên chờ đến lúc thi mới học.

Thứ năm, về cơ chế quản lý đào tạo và tổ chức đào tạo

* Về cơ chế quản lý đào tạo

Cơ chế quản lý đào tạo của Học viện có nhiều điểm đặc thù, khác biệt so với các cơ sở đào tạo khác. Ở các Trường đại học, cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp là Bộ Giáo dục - đào tạo, nhưng Học viện là tổ chức trực thuộc BCH Trung ương Đảng và Chính phủ. HV chịu sự chỉ đạo thường xuyên của Bộ chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ nhưng phần lớn liên quan đến chủ trương, đường lối. Các cơ quan cùng cấp với Học viện: Ban Tổ chức Trung Ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương có sự tác động đến Học viện trên một số mặt nhưng chưa được quy định về mặt thể chế. Riêng đào tạo đại học và sau đại học của Học viện do Bộ Giáo dục - đào tạo quy định. Liên quan đến quản lý đào tạo, Ban Tổ chức Trung ương quy định tiêu chuẩn và cơ cấu số lượng tuyển sinh. Cơ chế này có ưu điểm là gắn với quy hoạch cán bộ nhưng hạn chế tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở đào tạo. Với sự chỉ đạo, quản lý của nhiều cơ quan cấp trên và cùng cấp của Đảng và Chính phủ như vậy sẽ không tránh khỏi sự chồng chéo, trùng lắp và đặc biệt ảnh hưởng đến tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của HV trong quản lý đào tạo. Trong thực tiễn đã phát sinh một số bất hợp lý như: Số lượng và

chất lượng tuyển sinh không sát với nhu cầu, có độ chênh giữa nhu cầu thực tế với chỉ tiêu phân bổ và có sự chồng chéo trong chỉ đạo điều hành.

Thiếu quy chế phối hợp giữa Trung tâm Học viện và các Học viện trực thuộc. Chỉ tiêu đào tạo của các Học viện trực thuộc phụ thuộc vào sự phân bổ của Trung tâm Học viện nên có khi đối tượng đào tạo lấn sân nhau, việc phân cấp đối tượng và số lượng đào tạo chưa thật rõ ràng. Các Học viện trực thuộc thụ động trong việc triển khai chương trình đào tạo và kế hoạch khai giảng mở lớp. Trung tâm Học viện chưa có bộ phận chuyên trách công tác chỉ đạo, triển khai công tác đào tạo đối với các Học viện trực thuộc. Do vậy, một số thông báo và kế hoạch chuyển sang các Học viện trực thuộc chậm và việc giải quyết một số vướng mắc chưa thật thấu đáo.

* Về tổ chức đào tạo

Trong những năm qua công tác quản lý đào tạo của hệ thống Học viện cũng còn không ít những hạn chế, đó là:

- Tổ chức quản lý đào tạo của Học việ

; hình thức, phương thức tổ chức đào tạo ạ .

- Sự phân cấp, phối hợp giữa các đơn vị chức năng, giữa đơn vị chức năng với đơn vị đào tạo, giữa giảng viên lên lớp với giáo viên chủ nhiệm trong quản lý đào tạo đôi lúc còn lúng túng, chưa hiệu quả.

- Vẫn còn tình trạng chưa chấp hành thật nghiêm túc các nội dung yêu cầu trong các quy định, quy chế quản lý đào tạo, như: về phân cấp đối tượng đào tạo, bồi dưỡng; về quy trình tuyển sinh, tuyển không đúng tiêu chuẩn, độ tuổi quy định…

- Đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia công tác quản lý đào tạo chưa được đào tạo bài bản. Số người đã được học về chuyên ngành Quản lý Giáo dục còn ít.

Thứ sáu, về cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho hoạt động đào tạo - Hạn chế lớn nhất trong công tác đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật là sự thiếu đồng bộ. Đây không chỉ là hạn chế mà còn là nguyên nhân của nhiều hạn chế khác, ảnh hưởng đến nhiều công tác khác. Có thể thấy điều này rõ nhất trong trang cấp vật tư phục vụ giảng dạy và nghiên cứu. Các máy vi tính được trang cấp thiếu đồng bộ, không đầy đủ thiết bị cần thiết, cài đặt phần mềm không thông dụng nên hạn chế đến hiệu quả sử dụng.

- Hệ thống các giảng đường được xây dựng, thiết kế theo kiểu giảng dạy truyền thống, bục giảng, bệ giảng, bảng cố định với các công cụ như bảng, phấn, micro. Với giảng đường này sẽ rất khó khăn khi thực hiện phương pháp giảng dạy hiện đại.

- Hệ thống máy tính cố định của các khoa, phòng phần lớn là cũ, tốc độ chậm, hư hỏng nhiều nên việc khai thác sử dụng, hạn chế ít hiệu quả.

- Thực hiện phương pháp giảng dạy hiện đại, nhiều cán bộ cần sử dụng máy tính xách tay và đầu tư máy projector nhưng hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu.

Nhìn toàn hệ thống Học viện, từ nhà ở học viên đến giảng đường với những thiết bị chuyên dùng, thư viện, phương tiện tiếp nhận và xử lý thông tin, phương tiện kỹ thuật thực thi phương pháp giảng dạy hiện đại, phương tiện nghe nhìn, phương tiện đi lại… nói chung vừa thiếu thốn, lạc hậu, còn rất xa mới đạt trình độ trung bình của các nước trong khu vực.

Những hạn chế trong công tác xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Học viện đang cùng với một số bất cập của các công tác khác gây ra trở lực trên con đường đổi mới của Học viện. Vì thế rất cần tìm giải pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng công tác này trong thời gian tới.

Tóm lại, thông qua phương pháp luận của “SWOT” thì có thể nêu lên một số điểm mạnh, bất cập, cơ hội, thách thức của tiến trình phát triển Học viện như sau:

Điểm mạnh

- HV là trung tâm đứng đầu cả nước có truyền thống lâu dài, có uy tín và thương hiệu về đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý phục vụ nhu cầu phát triển đất nước.

- HV có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học và giảng dạy có trình độ cao, có phẩm chất cách mạng, tâm huyết với nghề nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong quản lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

- HV có hệ thống cơ sở vật chất vững mạnh, ở vị trí trung tâm, được nhà nước ưu tiên đầu tư đảm bảo nhu cầu đổi mới phát triển của HV.

Bất cập

- Mục tiêu, chương trình, phương thức đào tạo chậm được đổi mới, chưa theo kịp nhu cầu phát triển.

- Đội ngũ cán bộ đầu đàn, đầu ngành đang có xu hướng giảm dần, phát triển cán bộ trẻ chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo cả về số lượng, chất lượng và trình độ tiếng Anh.

- Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp, nhiều bộ phận chồng chéo nên hiệu lực quản lý chưa cao; tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa được phát huy.

Cơ hội

- Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho các nước đang phát triển tham gia vào mạng lưới giá trị toàn cầu. Nhiều tiềm năng phát triển được khai thác, phát huy lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế nhờ thu hút các nguồn lực to lớn từ bên ngoài như vốn, công nghệ, kỹ thuật quản lý hiện đại… Tuy nhiên, việc

thu hút và sử dụng được hiệu quả các nguồn lực này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, có đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý tài năng.

- Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, giáo dục đại học và sau đại học đang có xu hướng quốc tế hóa ngày càng mạnh mẽ. Quá trình này tạo nhiều cơ hội cho các Trường đại học, Học viện ở các nước đang phát triển tiếp cận nhanh với trình độ quốc tế nhờ liên kết đào tạo với các Đại học tiên tiến của các nước phát triển.

- Công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam đang gặp trở ngại lớn vì thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó đặc biệt là thiếu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có tư duy và năng lực quản trị hiện đại có tầm nhìn chiến lược, có kỹ năng chuyên nghiệp trong các lĩnh vực hoạch định chính sách và lãnh đạo tổ chức. Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo hiện nay là rất lớn, đây là cơ hội cho phát triển HV.

- Sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Chính phủ về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và ưu tiên đầu tư bằng cơ chế chính sách đặc biệt cho giáo dục đào tạo. Tuy vậy, do điều kiện phát triển còn nhiều hạn chế, hoạt động lâu trong môi trường bao cấp nên nhiều cơ sở đào tạo có bề dày truyền thống, qui mô lớn khó chuyển kịp để cung cấp nguồn lực chất lượng cao như mong đợi.

Thách thức

- Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập trong giáo dục đào tạo tạo ra nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho phát triển giáo dục đào tạo của các quốc gia nói chung và các cơ sở giáo dục đào tạo nói riêng, đặc biệt là những thách thức về cạnh tranh. Ngày càng nhiều các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước tham gia lĩnh vực đào tạo cán bộ lãnh đạo quản lý với những lợi thế cạnh tranh vượt trội.

Một phần của tài liệu Quản lý hoạt động đào tạo ở học viện trong bối cảnh hiện nay (Trang 116 - 125)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(242 trang)