CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NHẬN THỨC VỀ VHKD Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Một phần của tài liệu Văn minh và văn hóa, giáo dục ở việt nam (Trang 129 - 133)

1. Những tác động tích cực của kinh tế thị trường đến VHKD Việt Nam - Vai trò của kinh doanh nói chung và doanh nhân nói riêng đã được cải thiện đáng kể trong con mắt xã hội. Trong cuộc điều tra xã hội học ở TP. HCM tháng 5-2003, 94% số người được hỏi đã cho rằng, “kinh doanh là một nghề có ích cho xã hội”, 74% đã đồng ý với mệnh đề:

Người biết làm giàu là người đáng quý trọng”(9). Việc nhiều người có bằng cấp cao, thậm chí từng làm cán bộ quản lý trong cơ quan nhà nước vẫn chọn nghề kinh doanh, chứng tỏ xã hội đã thừa nhận tầm quan trọng của nghề này. Đây là một chuyển biến đáng kể so với quan niệm truyền thống của Việt Nam, chỉ coi trọng việc đỗ đạt làm quan, còn việc buôn bán là để dành cho những người ít học, thấp kém hơn trong xã hội. Ngay trong thời bao cấp, tâm lý này vẫn rất rõ ràng qua câu truyền miệng:

“Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa…”, để chọn ngành nghề, mà hoàn toàn bỏ qua kinh doanh.

- Trình độ chung của doanh nhân cũng được cải thiện đáng kể. Theo kết quả nghiên cứu của đề tài KX – 07 – 14, có tới 77% giám đốc có trình độ đại học(10). Không chỉ những người có học hành mới bắt tay vào kinh doanh, mà ngay cả những người đang là doanh nhân cũng muốn học hỏi, nâng cao trình độ của mình. Mặc dù điều này một phần bắt nguồn từ tâm lý trọng bằng cấp của người Việt Nam, nhưng nó cũng chứng tỏ doanh nhân hiện nay đã ý thức được tầm quan trọng của kiến thức khi tiến hành kinh doanh, nhất là trong thời buổi mở cửa và hội nhập hiện nay.

- Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng được trẻ hoá, phần lớn đang ở độ tuổi sung sức. Theo kết quả điều tra của nhóm tác giả Trường Đại học Ngoại thương (ĐHNT) tiến hành trong hai năm 1999 và 2000, 63,06% số người tiến hành đàm phán (bao gồm các giám đốc và trưởng phòng kinh doanh) ở độ tuổi từ 40 – 50, 25,23% dưới 40 tuổi và chỉ có 11,71% ở độ tuổi trên 50(11). Vì vậy, họ dễ dàng hơn trong học tập tiếp thu những kiến thức mới. Với tư cách là chủ thể hoạt động kinh doanh, họ cũng thổi một luồng sinh khí mới cho VHKD Việt Nam.

- Động cơ kinh doanh và nhận thức của doanh nhân đã được cải thiện đáng kể. Điều này thể hiện rõ trong kết quả nghiên cứu về tinh thần kinh doanh (entrepreneuship) do Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW phối hợp với tổ chức JICA (Nhật) tiến hành trong khuôn khổ dự án Ishikawa năm 2000, điều tra 481 doanh nghiệp dân doanh. Khi được hỏi về động cơ kinh

doanh, tỷ lệ lớn nhất trong các câu trả lời là: “Muốn làm gì có ích cho xã hội” (chiếm 41,4%), 27,3% trả lời là do “Muốn tự quyết định công việc của mình”, 13,5% do “Muốn phát huy tối đa khả năng của mình”, 16,4% do

Muoỏn tieỏp tuùc coõng vieọc cuỷa gia ủỡnh hieọn nay”, 9,7% do “muoỏn kieỏm nhieàu tiền hơn”, 5,1% do “Công việc trước đây không thích hợp” và 1,3% do “không có việc làm”(12). Như vậy hai nhóm động cơ chính là trách nhiệm của doanh nhân trước cộng đồng (41,4%) và phát huy năng lực cá nhân (23,7% + 13,5%

= 37,2%) chứng tỏ nhận thức đúng đắn của doanh nhân trong kinh doanh, vượt trội hơn nhiều so với các động cơ khác, nhất là so với mục đích làm giàu (mặc dù hoàn toàn chính đáng). Điều này cho thấy doanh nhân Việt Nam có trách nhiệm và ý thức xã hội khá cao. Họ kinh doanh không vì mục đích cá nhân, mặc dù động cơ này hoàn toàn là chính đáng. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý rằng, những con số này không hẳn đã hoàn toàn sát với tình hình thực tế. Hạn chế chung của các cuộc điều tra xã hội học là số người được hỏi có hạn, và chưa chắc những gì họ trả lời đã hoàn toàn khớp với việc làm của họ. Tuy nhiên, cuộc điều tra này cũng cho thấy xu hướng muốn tự lập thân, muốn phát huy và khẳng định năng lực cá nhân của mình là điểm mạnh của doanh nhân Việt Nam. Hơn nữa, cuộc điều tra này cho thấy một điểm mới là doanh nhân hiện nay muốn tự khẳng định mình để đóng góp cho xã hội, khác với thời bao cấp, họ bị yêu cầu phải hy sinh cá nhân mình để đóng góp cho xã hội. Điều này đã chứng tỏ một sự trưởng thành trong nhận thức của doanh nhân nước ta.

- Các doanh nhân Việt Nam đã khá thành công trong cơ chế thị trường, tới 81,1% người được hỏi trả lời từ rất hài lòng đến tương đối hài lòng với công việc của mình. Điều này cũng có nghĩa là doanh nhân nước ta đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hơn nữa đến 68% người được hỏi muốn dùng lợi nhuận thu được để mở mang kinh doanh, vượt xa tỷ lệ người muốn dùng lợi nhuận để chi tiêu cá nhân(13). Con số này cho thấy doanh nhân thời nay có tầm nhìn xa và rất nghiêm túc trong công việc của mình.

Tuy vậy bên cạnh những thay đổi tích cực, kinh tế thị trường cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực đến VHKD Việt Nam. Phần lớn những yếu tố tiêu cực này vốn tiềm ẩn trong văn hoá cổ truyền, trong cơ chế thị trường mới có dịp bộc lộ, nhưng cũng có những yếu tố tiêu cực xuất phát từ chính bản chất của cơ chế thị trường.

2. Tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đến VHKD Việt Nam

- Tác động tiêu cực lớn nhất của cơ chế thị trường đến VHKD Việt Nam chính là sự chao đảo về các hệ thống giá trị (value system) trong mỗi con người Việt Nam nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung. Việt Nam vốn là một nước có nền văn hoá nông nghiệp, trọng tĩnh, với hệ thống các giá trị thiên về tinh thần hơn là vật chất như thích hoà hiếu, trọng tình, ham danh hơn ham lợi, trọng thể diện… Cách suy nghĩ có phần thiếu thực tế đó càng được củng cố qua thời kỳ bao cấp, khi sự thành đạt của con người không

gắn với hiệu quả công việc mà phụ thuộc vào sự chấp nhận của xã hội.

Trong một thời gian dài, xã hội Việt Nam có tâm lý không coi trọng, thậm chí nghi kỵ những người giàu có, nhất là các thương nhân. Việc kê khai lý lịch rằng mình là con nhà nghèo đã trở thành mốt, thành điều đáng tự hào vì nó chứng tỏ gia đình mình trong sạch, còn những người xuất thân từ các gia đình khá giả phải tìm cách che giấu hoàn cảnh thực sự của mình.

Nghịch lý này đã tồn tại quá lâu dài ở Việt Nam, đến mức được coi như một điều đương nhiên, nhưng nó cũng có tác dụng giúp con người Việt Nam an phận, không đòi hỏi nhiều về vật chất, điều bị coi là xa xỉ trong thời kỳ chiến tranh. Của cải cá nhân chủ yếu có được nhờ tiết kiệm, tích cóp để chia lại một cách dè sẻn cho con cháu. Những ai mới vào đời thường khó có cơ hội thể hiện mình, thường phải dựa vào gia đình, vào người đi trước để xây dựng vị trí cho mình trong xã hội. Vì thế, tôn ti trật tự trong xã hội được bảo đảm, các giá trị đạo đức ít bị xáo trộn. Tuy nhiên, tâm lý này cũng là yếu tố cản trở sự phát triển của kinh tế.

Khi bước vào cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh được nhà nước khuyến khích, một số thương nhân giàu lên nhanh chóng, với tốc độ không ai ngờ tới trước đó. Những phi vụ buôn bán với nước ngoài, buôn bán bất động sản trong vòng một vài tháng có thể đem lại số lợi nhuận bằng, hoặc thậm chí lớn hơn, cả đời người cán bộ tích góp trong thời bao cấp. Hơn nữa, người thành công lại thường là những người trẻ tuổi, dám khám phá. Thực tế này đã làm đảo lộn hoàn toàn những quan niệm truyền thống, những giá trị đạo đức cũ bị chê là lỗi thời, lạc hậu, không ai quan tâm tới. Tôn ti trật tự cũng không còn được coi trọng vì kinh nghiệm của lớp người đi trước bị cho là không còn phù hợp với hoàn cảnh mới. Sự khủng hoảng này là tất yếu khi chúng ta bước từ mô hình kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, điều đáng nói là, trong khi những giá trị tinh thần cũ bị chê bỏ, thì chưa có những giá trị tinh thần mới để lấp vào chỗ trống đó. Vì thế, trong xã hội, điều tốt và điều xấu nhiều khi lẫn lộn, con người Việt Nam chao đảo, không còn chuẩn mực để noi theo. Điều này cũng ảnh hưởng nhiều đến VHKD Việt Nam. Xuất phát từ thực tế là nhiều doanh nghiệp thành công không phải bằng con đường làm ăn chân chính, đã làm một số doanh nhân mất tinh thần, nảy sinh tư tưởng làm ăn gian dối, đánh quả, chụp giật… Hơn nữa, môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa ổn định, chưa ủng hộ những doanh nhân làm ăn nghiêm chỉnh, nên tư tưởng này càng có đất phát triển, thậm chí còn có quan niệm rằng, ở Việt Nam chỉ có làm ăn lắt léo mới có thể trụ được trên thương trường. Đây là một cách nghĩ rất nguy hiểm, nếu không sớm được loại trừ, về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến nền tảng đạo đức xã hội và hình ảnh của đất nước Việt Nam trong con mắt doanh nhân nước ngoài.

- Các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng, văn hoá Việt Nam khá ôn hoà.

Chúng ta không quá khắt khe về tôn giáo như người Trung Đông, không có

kỷ luật để khép mình vào tập thể như người Nhật, không quá lệ thuộc vào gia đình, dòng họ như người Italia, không tự hào về chủng tộc như người Hoa… Tính chất này giúp con người Việt Nam có tính khoan dung, mềm dẻo, dễ hoà đồng, nhưng cũng làm chúng ta dễ chao đảo, không có điểm tựa vững chắc về tinh thần. Hơn nữa, như số liệu điều tra cho thấy, phần lớn doanh nhân Việt Nam kinh doanh không bắt nguồn từ truyền thống gia đình, lại xuất thân từ những gia đình nghèo, không được đào tạo cơ bản, nên có nhiều hạn chế về kiến thức và trình độ. Thực tế này cộng với nền tảng tinh thần không ổn định đã làm nhiều doanh nhân có tham vọng không giới hạn trong việc làm giàu và tích luỹ tư bản. Những vụ án kinh tế gần đây như Lã Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Bé Tư, vụ công ty Đông Nam Associates…, đã cho thấy khi quyền lực, cơ hội được đặt vào tay những con người hạn chế về trình độ và tư cách đạo đức, thì có thể làm nảy sinh nhưng tham vọng tội lỗi vô hạn đến như thế nào. Đành rằng, trong kinh doanh, lợi nhuận là mục đích chính, nhưng việc mưu cầu lợi nhuận đến mức bất chấp thủ đoạn, bất chấp đạo lý, luật pháp, quá táo tợn như vậy quả là một tiếng chuông cảnh báo về tình trạng VHKD của Việt Nam.

- Xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, lại thường xuyên phải đương đầu với những hoàn cảnh tự nhiên và xã hội nhiều bất trắc, con người Việt Nam thường có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Vì vậy, theo nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài, bối cảnh và môi trường kinh tế Việt Nam thuộc loại “low trust society” (xã hội thiếu chữ tín). Trong bối cảnh kinh tế thị trường, khi các mối quan hệ được mở rộng, điểm yếu này càng có nguy cơ bộc lộ rõ ràng. Điều này thể hiện ở tầm vĩ mô là các chính sách của chính phủ thường hay thay đổi, và khi thay đổi lại không cần tính đến quyền lợi của những người có liên quan. Đây là một khiếm khuyết quan trọng, làm môi trường kinh doanh Việt Nam kém tính hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Còn ở tầm vi mô, theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam không coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lý do khách quan để khước từ việc thực hiện cam kết (14). Điều này thường gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Nhưng nghiêm trọng hơn cả là nhiều người không coi đây là khiếm khuyết cần sửa chữa, mà lại coi đó là đường lối khôn ngoan của mình, chê đối tác là thiếu thông cảm, không uyển chuyển. Chừng nào các nhà quản lý và doanh nhân Việt Nam còn chưa nhận ra tầm quan trọng của chữ tín trong mọi mối quan hệ, thì chúng ta còn khó lấy được niềm tin của đối tác. Về lâu dài, điều này sẽ có ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của Việt Nam trên thị trường thế giới.

Như vậy, chúng ta có thể thấy, cơ chế thị trường đã có những ảnh hưởng tích cực đến VHKD Việt Nam, giải phóng năng lực kinh doanh trong mỗi doanh nhân, tạo cơ hội cho họ được thể hiện mình, được cống hiến cho xã hội theo chí hướng mà mình mong muốn. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực, kinh tế thị trường cũng có không ít những tác

động tiêu cực đến VHKD Việt Nam. Hơn nữa, cần lưu ý rằng, việc xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam mới đang ở giai đoạn khởi đầu, nên cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đều chưa thể bộc lộ hết. Vì thế, biến động của VHKD Việt Nam trong nền kinh tế thị trường chắc chắn sẽ còn những diễn biến mới, nhất là khi chúng ta bước vào tiến trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế quốc dân, mở cửa để giao lưu với các nền VHKD nước ngoài.

Một phần của tài liệu Văn minh và văn hóa, giáo dục ở việt nam (Trang 129 - 133)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(762 trang)