VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Một phần của tài liệu Văn minh và văn hóa, giáo dục ở việt nam (Trang 507 - 513)

VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

II. VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc Đổi mới từ Đại hội VI của Đảng vào cuối năm 1986. Đổi mới ở Việt Nam đã diễn ra gần 20 năm nay, đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật.

Thực tiễn đổi mới cũng đặt ra nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết. Từ những thành tựu, những vấn đề đặt ra và xu hướng phát triển của đổi mới ta thấy rõ vai trò và tác dụng của văn hóa, đặc biệt là những khía cạnh văn hóa trong phát triển kinh tế.

Khi xác định nội dung và bước đi của tiến trình đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh rằng đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế.

Như vậy, văn hóa tư duy, văn hóa nhận thức về kinh tế là tiền đề lý luận, là cơ sở lý luận cho việc hình thành những chính sách và giải pháp để đổi mới kinh tế trong thực tiễn.

Tư duy kinh tế mới hình thành trong thực tiễn đổi mới ở Việt Nam bắt đầu từ đâu và khâu đột phá của nó là gì? Đó là sự thay đổi quan niệm và thái độ ứng xử của chủ thể nhận thức về sản xuất hàng hóa, kinh tế hàng hóa và hình thành cơ cấu nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, do đó tất yếu phải đa dạng hóa các hình thức phân phối lợi ích, các hình thức tổ chức quản lý sản xuất, quản lý kinh tế.

Sự hình thành những nhận thức mới nói trên về sản xuất, về kinh tế được thúc đẩy từ sự nhận thức lại cho đúng về quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Mối quan hệ này là quy luật có tính phổ biến và phổ quát ở mọi thời đại kinh tế, mọi chế độ xã hội. Ở

đây có sự điều chỉnh, sự sửa chữa lớn trong nhận thức. Trước đổi mới, vai trò của quan hệ sản xuất mới đã bị tuyệt đối hóa, tách rời khỏi lực lượng sản xuất; đồng thời quan hệ sở hữu cũng bị tách rời khỏi quan hệ phân phối lợi ích và quan hệ quản lý. Sở hữu xã hội và sở hữu tập thể – những hình thức của chế độ công hữu được coi là tất cả, lại không thấy rằng, chúng bị chế ước bởi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Bị ảnh hưởng bởi tư tưởng giáo điều, chủ quan, duy ý chí nên đã có lúc chúng ta lầm tưởng rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến có thể đi trước một bước, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là một nhận thức sai lầm, mở đường cho những việc làm, những hành động trái quy luật, không phù hợp với thực tiễn, cản trở, kìm hãm sự phát triển. Bước vào đổi mới, vấn đề quan hệ sản xuất mới đã được nhận thức lại, đã tôn trọng quy luật khách quan, đặt nó trong sự chi phối của lực lượng sản xuất.

Tiến hành cách mạng sức sản xuất để giải phóng sức sản xuất, chú trọng tới cái gốc của mọi vấn đề phát triển kinh tế và xã hội là phát triển lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó mà từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Nhờ nhận thức mới này, xã hội đã nhận được xung lực mạnh mẽ để ra khỏi sức ì và sự trì trệ. Đó là tập trung mọi nỗ lực để giải phóng sức sản xuất, phát triển sản xuất hàng hóa, chuyển nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hóa với cơ cấu nhiều thành phần kinh tế.

Đó là bước khởi động đầu tiên.

Ý thức được sự cần thiết và sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hóa với cơ cấu nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, tất yếu dẫn tới việc thừa nhận vai trò của quy luật giá trị, quan hệ hàng hóa – tiền tệ, sự tôn trọng quy luật giá trị trong sản xuất hàng hóa, trong quá trình sản xuất – trao đổi – lưu thông – phân phối hàng hóa trên thị trường với sự điều tiết của quy luật giá trị và thị trường – những quy luật chi phối trực tiếp nền sản xuất hàng hóa và kinh tế hàng hóa.

Vấn đề lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế, vật chất của người lao động, của các chủ thể sản xuất kinh doanh được chú trọng. Trong đổi mới kinh tế, lợi ích cá nhân của người lao động, người sản xuất – kinh doanh đã được coi là động lực trực tiếp để thúc đẩy sản xuất, là cơ sở để thực hiện lợi ích chung của tập thể, của xã hội. Hơn nữa, lợi ích xã hội cũng không phải là cái gì trừu tượng, ở bên ngoài lợi ích của những cá nhận hiện thực. Chỗ đến của lợi ích xã hội là phục vụ cuộc sống của con người, phát triển con người.

Nhờ đó, việc giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích, các chủ thể lợi ích đều phải dựa trên quan điểm và nguyên tắc, lấy con người làm trung tâm chú ý của xã hội, phát triển sản xuất, kinh tế nhằm phục vụ cuộc sống của con người. Thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích thường nhật, bức xúc của con người một cách hợp lý, công bằng là tạo ra nhân tố kích thích tính tích cực lao động của họ, là đòn bẩy và động lực mạnh mẽ để chuyển nền kinh tế ra khỏi sức ì, ra khỏi “điểm chết”. Một khi lợi ích - điểm nhạy cảm nhất đối

với hoạt động của con người - được quan tâm giải quyết thỏa đáng thì nền kinh tế đã tìm thấy đúng động lực để phát triển. Nó nhanh chóng trở nên năng động với những chuyển biến về năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng rõ nét, ngày càng tích cực. Nó khắc phục được một trong những khuyết tật căn bản của mô hình kinh tế thiếu động lực phát triển của thời kỳ trước đổi mới, đó là sự thờ ơ của người lao động đối với lao động và kết quả lao động. Quan điểm coi trọng lợi ích và lợi ích cá nhân của người lao động đã dẫn đến bước chuyển động ở khâu đột phá là chính sách và cơ chế khoán trong sản xuất nông nghiệp, lấy kinh tế hộ nông dân làm đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn, thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng cho hộ nông dân, đảm bảo cho họ quyền sử dụng lâu dài tư liệu sản xuất, gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng lao động.

Cùng với những bước đi đó, một loạt biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng

“ngăn sông cấm chợ” kìm hãm sản xuất và lưu thông, trợ giá cho nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thực hiện quyền chủ động trong sản xuất – kinh doanh của người lao động, phát triển và liên kết thị trường địa phương với cả nước đã tạo ra sức đẩy cho sản xuất và hoạt động kinh tế.

Đó là điểm khởi đầu cho thấy tác dụng quan trọng của đổi mới tư duy kinh tế như một nhân tố văn hóa đối với những biến đổi tích cực trong thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta.

Việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và bình quân, chuyển sang cơ chế thị trường có cạnh tranh, phân hóa và vượt trội trong phát triển là một bước đi, một quyết định đúng đắn, hợp với lôgíc của kinh tế hàng hóa, của quan hệ hàng hóa – thị trường. Đây cũng là một khía cạnh nổi bật của văn hóa kinh tế tác động vào thực tiễn phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới. Với cơ chế thị trường, nền kinh tế nước ta biểu hiện ra là một nền kinh tế chuyển đổi, một nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ. Đây là bước chuyển về mô hình kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Từ nền kinh tế hiện vật chuyển sang kinh tế hàng hóa, từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung với tính tuyệt đối hóa của kế hoạch, coi kế hoạch pháp lệnh là tất cả, đặc trưng cho mô hình kinh tế kế hoạch, nền kinh tế chỉ huy với sự can thiệp sâu của Nhà nước chuyển sang kinh tế thị trường với cơ chế thị trường có vai trò điều tiết hợp lý của kế hoạch, nhờ đó, phân định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước bằng pháp luật, chính sách và kế hoạch với quyền chủ động trong sản xuất – kinh doanh của các chủ doanh nghiệp, của người sản xuất. Họ được phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, tự hạch toán, tự trang trải, tự chịu trách nhiệm. Bước chuyển này tạo ra tính chủ động của chủ thể. Xóa tập trung quan liêu, bao cấp, bình quân đã đặt các chủ doanh nghiệp vào môi trường mới – cạnh tranh trên thị trường, phải thường xuyên tự trau dồi năng lực sản xuất – kinh doanh, phải tự nỗ lực để tồn tại và phát triển, khẳng định được mình trên thương trường, vượt qua những thách thức của sự thua lỗ, phá sản.

Thị trường điều tiết giá cả; biến động trên thị trường phản ánh những biến động của quan hệ cung – cầu; bao cấp được xóa bỏ biểu hiện ở việc xóa bỏ cơ chế hai giá, xóa bỏ chế độ tem phiếu trong phân phối, cả người sản xuất, kinh doanh lẫn người tiêu dùng đều phải thích nghi với cơ chế mới, phải làm quen với những đòi hỏi mới, phải tự chủ và tự chịu trách nhiệm không còn có thể ỷ lại mãi vào Nhà nước. Đó cũng lại là môi trường xã hội mới để con người có điều kiện rèn luyện năng lực, tháo vát, tính sáng tạo, chủ động của mình thay thế cho sự thụ động, bị động trước đây.

Con người buộc phải tự mình vươn lên, tự đổi mới, tự vượt lên hoàn cảnh để trưởng thành với thực lực, thực tài, với sự nỗ lực bươn trải thường xuyên để tìm tòi giải pháp, phát huy sáng kiến, phải nhạy cảm, tháo vát, năng động, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không còn có thể dựa dẫm, sống ký sinh vào Nhà nước, vào một chủ thể khác như trước.

Từ cơ chế thị trường như một công cụ quản lý kinh tế, dần từng bước, ở Việt Nam đã định hình thực thể nền kinh tế thị trường, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là bước phát triển mới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm, khắc phục tình trạng thừa thiếu giả tạo thời kỳ bao cấp, tình trạng “lãi giả lỗ thật” trong các doanh nghiệp nhà nước trước đây với cơ chế kế hoạch hóa tập trung.

Sự phát triển này, nhìn nhận từ góc độ văn hóa kinh tế cho thấy sự thâm nhập và tác động của văn hóa vào kinh tế đã thúc đẩy kinh tế phát triển và năng lực kinh tế của người sản xuất – kinh doanh có ý nghĩa như một dấu hiệu trưởng thành về văn hóa ở bản thân họ.

Trên phương diện này, còn có thể thấy, tư duy và nhận thức xã hội về kinh tế thị trường (KTTT) đã ngày một rõ nét hơn. Tiếp nhận KTTT, đó là tiếp nhận một thành quả, một giá trị văn hóa có tính phổ biến của nhân loại. Áp dụng cơ chế thị trường và KTTT trong xây dựng thể chế của nhân loại. Áp dụng cơ chế thị trường và KTTT trong xây dựng thể chế kinh tế và phát triển kinh tế, điều đó phù hợp với xu thế chung của cải cách, đổi mới mà các nước đang tiến hành, là con đường tất yếu để tạo ra tăng trưởng và phát triển, để hiện đại hóa xã hội. Nhận thức đó tự nó đã khắc phục những định kiến, thiên kiến trước đây, vốn đồng nhất KTTT với Chủ nghĩa tư bản, do đó, đối lập CNXH với kinh tế thị trường. Việc thay đổi cách nhìn nhận này chẳng những đã tạo ra tiền đề nhận thức để thúc đẩy đổi mới kinh tế mà còn hình thành nhận thức lý luận mới về CNXH nói chung. Hơn nữa, cũng với tư tưởng giải phóng lực lượng sản xuất dẫn tới dòng chuyển động lớn về KTTT, ở Việt Nam, KTTT còn tạo ra nội dung của tính tất yếu kinh tế để phát triển dân chủ, để thúc đẩy cuộc vận động dân chủ hóa xã hội, trước hết là dân chủ hóa kinh tế. Giải phóng sức sản xuất đi liền với giải phóng ý thức xã hội, thực hiện tự do tư tưởng. Cùng với dòng chuyển động kinh tế hàng hóa - thị trường, đổi mới còn khai thông dòng chuyển động về dân chủ hóa đời sống xã hội, cơ chế thị trường

đi liền với cơ chế dân chủ mà hạt nhân của nó là lợi ích kinh tế, quyền làm chủ kinh tế của người lao động. Đó là khía cạnh văn hóa có ý nghĩa then chốt, tác động sâu xa và trực tiếp vào phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Đổi mới ở Việt Nam dựa trên một định hướng căn bản đảm bảo cho tính chất, xu hướng phát triển XHCN ở Việt Nam, đó là kết hợp tăng trưởng kinh tế với từng bước thực hiện công bằng xã hội. Có thể xem đây là điểm cốt yếu nhất của mô hình, mục tiêu và con đường phát triển ở Việt Nam. Trong nguyên lý định hướng này ta thấy rõ vai trò của thước đo nhân văn, của thước đo văn hóa đối với kinh tế, đó là mục đích xã hội của phát triển, của tăng trưởng kinh tế. Đó là công bằng xã hội, là thực chất của định hướng XHCN trong KTTT ở Việt Nam.

Nhận thức mới về công bằng xã hội, một mặt đã vượt qua tính thô sơ, thiển cận của chủ nghĩa bình quân, chia đều, nó trái với bản chất của công bằng, trái với nguyên lý động lực của phát triển mà trước đây chúng ta đã mắc phải, mặt khác, chúng ta đã nhận rõ, công bằng xã hội không chỉ là công bằng về phân phối lợi ích mà còn là công bằng về cơ hội phát triển, đặt mọi thành viên của cộng đồng vào cơ hội như nhau để phát triển, tuyệt đối không có một sự phân biệt, ngáng trở nào.

Đây mới là thực chất của công bằng, là chiều sâu của tư tưởng công bằng xã hội theo quan điểm phát triển. Đây là khía cạnh văn hóa nổi bật tác động và định hướng cho phát triển kinh tế ở Việt Nam. Thực hiện công bằng xã hội là thực hiện những điều kiện, là tạo ra môi trường cho phát triển con người, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, là đảm bảo cho sự phát triển không bị biến dạng, tha hóa. Chấp nhận phân hóa giàu nghèo để kích thích phát triển và vượt trội, đồng thời hết sức chú trọng xóa đói giảm nghèo, gắn liền kinh tế với xã hội, chính sách chú trọng xóa đói giảm nghèo, gắn liền chính sách kinh tế với chính sách xã hội, thực hiện các điều tiết xã hội để phân hóa giàu nghèo không vượt quá giới hạn cho phép biến thành phân hóa giai cấp làm bần cùng hóa người lao động và dẫn tới chệch hướng XHCN.

Ở đây, tác động vào phát triển kinh tế không chỉ có văn hóa kinh tế mà còn có vai trò của văn hóa chính trị, văn hóa quản lý xuất phát từ mục tiêu nhân văn, văn hóa của đổi mới.

Phát triển và tăng trưởng kinh tế không có mục đích tự thân, không phải là cứu cánh. Với KTTT, mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh đều phải hướng đích tới lợi nhuận, đạt được tăng trưởng và tăng trưởng với tốc độ cao, nhưng không phải vì thế mà chấp nhận lợi nhuận, tăng trưởng bằng mọi giá. Không vì tăng trưởng mà rời công bằng xã hội, thậm chí hy sinh công bằng xã hội. Nhiều nước đã phải trả giá cho mô hình kinh tế kiểu đó. Nhất quán với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trong tiến trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương gắn liền chính sách kinh tế với chính sách xã hội, coi đầu tư

cho lĩnh vực xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội là đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển. Chính sách xã hội không thụ động đi sau chính sách kinh tế, đó không phải là chính sách “ăn theo”, do đó, đầu tư cho các vấn đề, các lĩnh vực xã hội được giải quyết ở tầm chiến lược chứ không phải như một thứ “phụ gia”, một nguồn bổ sung sau khi đã đầu tư xong kinh tế. Giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu bởi nó tạo ra chất lượng nguồn nhân lực, nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực. Vốn người là nguồn vốn quan trọng, quyết định nhất, con người là tài nguyên quý giá nhất. Đây chẳng những là quan điểm chỉ đạo quá trình vạch ra chính sách, thực thi chính sách mà còn là tiêu chí hàng đầu để đánh giá, xem xét hiệu quả, chất lượng phát triển kinh tế - xã hội. Tiêu chí đó chính là văn hóa, coi con người là giá trị hàng đầu của mọi giá trị văn hóa. Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh, mọi dự án, chương trình phát triển kinh tế-xã hội đều phải chú trọng tới chất lượng nhân văn, chiều cạnh nhân văn, văn hóa của nó. Cũng như vậy, vấn đề đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội bị suy thoái, xuống dốc phải được xem xét là tình huống trong phát triển. Đi vào KTTT với những mặt trái và hậu quả tiêu cực của nó đòi hỏi phải chú trọng tới vai trò của đạo đức và luật pháp. Đó là hai nhân tố đảm bảo cho KTTT không ở bên ngoài tầm quản lý với những chuẩn mực văn hóa.

Trong các khía cạnh văn hóa tác động tới phát triển kinh tế ở nước ta thời kỳ đổi mới còn phải nói tới những biến đổi tâm lý xã hội, lối sống, định hướng giá trị và sự lựa chọn giá trị cuộc sống của con người, nhất là lớp trẻ hiện nay.

Đáng lưu ý là những biến đổi dưới đây:

Thứ nhất, kinh tế hàng hóa, KTTT tạo ra tính tất yếu kinh tế để thúc đẩy sự hình thành ý thức dân chủ và phát triển năng lực dân chủ của công dân, đó là ý thức về quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm, quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cá nhân, tự ý thức về vai trò, trách nhiệm của cá nhân đối với chính mình, với những người xung quanh qua thái độ, hành vi, hoạt động và kết quả lao động của mình.

Thứ hai, sự thay đổi quan niệm về lao động xã hội có ích, về thước đo giá trị đạo đức trong lao động. Bất cứ lao động nào có thể tự nuôi sống mình, đem lại lợi ích cho mình và có đóng góp cho xã hội đều là lao động có ích, đều có giá trị đạo đức. Cá nhân tự giải phóng mình ra khỏi sự lệ thuộc, thụ động vào việc trông chờ giải quyết công việc từ Nhà nước, tìm việc làm ở mọi tổ chức, thành phần kinh tế, không coi làm việc trong khu vực nhà nước là con đường duy nhất để vào đời, lập thân, lập nghiệp.

Thứ ba, phát triển nhu cầu đa dạng, có ý chí và nghị lực vượt qua ngưỡng đói nghèo, vươn lên làm giàu bằng lao động chính đáng, hợp pháp.

Định hướng giá trị và lực chọn giá trị đã xuất phát từ thực tế, không viển

Một phần của tài liệu Văn minh và văn hóa, giáo dục ở việt nam (Trang 507 - 513)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(762 trang)