Shoichi Ota*
I. MỞ ĐẦU
Thành phố thủ đô của Việt Nam, Hà Nội, có lịch sử nghìn năm kể từ ngày thành lập vào năm 1010. Khu vực phố cổ được biết đến là “khu vực 36 phố phường” vẫn là trung tâm thương mại của thành phố và nắm giữ phần cốt lõi hoạt động đô thị. Kỷ niệm nghìn năm, bảo tồn đô thị để gìn giữ các tài sản văn hóa đã trở thành mối quan tâm lớn nhằm củng cố vai trò hạt nhân truyền thống hay quốc gia của Hà Nội.
Bất chấp các mối quan tâm này, nhiệm vụ này không dễ thực hiện. Vấn đề phức tạp nhất là không thể tìm ra một giải pháp cố định để bảo tồn khu phố cổ của Hà Nội, nơi số ít các ngôi nhà cổ còn tồn tại. Trường hợp Hội An, một thành phố truyền thống còn trọn vẹn dấu ấn kiến trúc cổ thì ưu tiên trước nhất là bảo tồn các ngôi nhà cổ này. Tuy nhiên, giải pháp này không phải luôn thích hợp ở Hà Nội.
Phải nói rằng, không chỉ cấu trúc tự nhiên mà cả phần mềm của thành phố cần được bảo tồn như lối sống, các di tích văn hóa… Các giải pháp cho bảo tồn khu phố cổ cần được xem xét.
Trong bài tham luận này, tạo ra một mô hình kiến trúc mới được thiết kế dựa trên đặc điểm không gian của khu này sẽ được đưa ra như một giải pháp bảo tồn. Ở đây, tác giả sẽ thử đánh giá phương pháp này như một công cụ chủ yếu cho việc bảo tồn.
Việc tìm ra câu trả lời cho việc bảo tồn là mối quan tâm lớn ngày nay.
Khi xem xét kiến trúc truyền thống của thành phố, các đặc điểm của khu phố cổ Hà Nội đã lộ rõ. Sự hiểu biết bản xứ từ vùng đất này có thể được áp dụng để giải quyết các vấn đề mà thành phố này hiện thời đang phải đối mặt và có thể áp dụng cho dự án bảo tồn.
* Viện Văn hóa phương Đông, Đại học Tokyo. Nhật Bản.
II. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA KHU PHỐ CỔ HÀ NỘI
Khu phố cổ của Hà Nội bao gồm những ngôi nhà vừa là nhà ở vừa là cửa hàng (shop house), cái nọ nối tiếp cái kia có chiều rộng từ 2,5 đến 5,5m, chiều sâu đôi khi trên 60m. Ngôi nhà được sử dụng làm cửa hàng được gọi là Nhà hình ống hoặc nhà giống hình ống (tube-like house), nằm sau phần cực hẹp của ngôi nhà, chiếm toàn bộ khối nhà. Trong khu vực này nơi có các quầy hàng hóa dọc theo các phố, nhất thiết phải bố trí một ngôi nhà quay mặt ra phố để đảm bảo không gian cho cửa hàng. Với cách bố trí một mặt tiền mở ra phố và chỗ dành cho cửa hàng ở tầng trệt, phía sau và 2 bên nhà đền là tường do đó nó không có sự liên kết với các nhà bên cạnh.
Không gian bên trong các ngôi nhà được sử dụng làm cửa hàng chứa đầy những thiết bị độc nhất vô nhị không chỉ gìn giữ sự riêng tư của người cư trú mà còn tạo ra những không gian sống thoải mái. Trên địa điểm hẹp, một không gian được xây dựng và một không gian bỏ trống kế tiếp nhau ngầm tạo ra một chuỗi nối tiếp nhịp nhàng. Những sân nhỏ bên trong đóng vai trò đảm bảo thoáng khí và ánh sáng. Về hiệu quả của việc xây dựng, ngôi nhà được sử dụng làm cửa hàng có thể chứa được nhiều người với mật độ dân số trung bình 1000 người/ha gần như là đặc điểm tương tự khu nhà tập thể ở ngoại ô Tokyo. Rõ ràng là những ngôi nhà này có thể chứa được rất nhiều người chỉ bằng cách mở rộng công trình kiến truực hieọn nay.
Hình 1: Khu phố cổ Hà Nội (Nguồn: tác giả)
Về hiệu quả môi trường, ngôi nhà có khả năng ngăn nóng quá mức của không gian bên trong bằng cách tránh ánh sáng mặt trời trực tiếp, tăng hiệu quả thóang khí hay sử dụng các vật liệu đủ khả năng cung cấp nhiệt.
Ngôi nhà cũng có một vài vấn đề nghiêm trọng như thiếu bề mặt sàn do có quá nhiều người, đánh mất hiệu quả thoáng khí do giảm diện tích sân trong bởi tòa nhà liền kề không hợp lý… Có nhiều khoảng trống cho việc phát triển môi trường nội thất.
Hình 2: Ngôi nhà được sử dụng làm cửa hàng của khu phố cổ Hà Nội (Nguồn: tác giả)
Khu phố này được hình thành nhằm giới thiệu khu thương mại có mật độ dân cư cao. Với mục tiêu này, số lượng lớn các cửa hàng được thừa
nhận và chiều rộng của mỗi ngôi nhà được thiết kế dựa trên phạm vi cửa hàng mà một hộ gia đình có thể tự điều hành. Mặt khác, những cư dân trong khu vực này có thể là những người tiêu thụ tiềm năng. Chiều dài của ngôi nhà có ảnh hưởng lớn đến số lượng cư dân sống trong đó. Con số này, được quyết định bởi dân số được cho là sinh sống trong thành phố với nhịp điệu hối hả và bận rộn này, sẽ quyết định kích thước trung bình của mỗi khối nhà và hơn nữa là mật độ của khối, trong một khu, cấu trúc khoõng gian cuỷa khu phoỏ coồ.
III. MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP BẢO TỒN
Cho đến nay, nhiều nghiên cứu về bảo tồn khu phố này đã được các cơ quan thuộc chính phủ, các viện nghiên cứu hay các hình thái kiến trúc trong và ngoài nước thực hiện.
Trường hợp cần được xem xét đến nhất là phải đảm bảo không gian trống ở trung tâm của mỗi khối nhà nhằm giảm mật độ dân cư và tạo ra không gian mở. Một cách tiếp cận khác là bảo tồn phần mặt tiền của các ngôi nhà vừa là nhà ở vừa là cửa hàng (shop house) vì cảnh quan thẩm mỹ của thành phố. Hai cách tiếp cận này luôn đi cùng với nhau khi xem xét một khối nhà như một đơn vị thể chất của khu phố cổ này. Xét về mặt tự nhiên, quan điểm này dường như thích hợp nhưng về mặt hữu cơ mà nói thì không thích hợp. Xem xét lịch sử hình thành khu phố cổ này thì nó là tập hợp của các phường thiết lập ở cả hai bên của mỗi phố. Ở đây các dãy nhà sử dụng làm cửa hàng ở cả hai bên đường cần xem như một nhóm hay một tổ chức.
Đối với các ngôi nhà riêng lẻ, việc bảo tồn và phục chế toàn bộ nhà đã được áp dụng thử nghiệm đối với Hà Nội tại 87 Mã Mây và 38 Hàng Đào. Tuy nhiên, trong những trường hợp này, các cư dân sinh sống trong các ngôi nhà này phải dọn đi để sử dụng làm bảo tàng.
Một ví dụ điển hình khác đang diễn ra ở phố Hàng Bạc là tiến hành đồng thời việc bảo tồn và cư trú. Cấu trúc mặt tiền và mái gỗ sẽ được giữ lại nhằm bảo tồn cảnh quan lịch sử của thành phố trong khi phần xây dựng gần đây của ngôi nhà sẽ được xây lại thành cấu trúc cụ thể được gia cố hiện đại để đáp ứng những yêu cầu hiện thời. Đây có thể là một giải pháp thực tế cho việc bảo tồn ngôi nhà vừa là nhà ở vừa là cửa hàng (shop house) tại khu phố cổ, tuy nhiên việc cấu trúc đáng được bảo tồn sẽ vẫn tiếp tục tồn lại là trường hợp hiếm hoi. Hầu hết các trường hợp trong khu phố cổ đều rơi vào tình trạng ngược lại, khó tìm thấy một di tích còn nguyên vẹn bởi những sự thay đổi hay sửa chữa thường xuyên các ngôi nhà.
IV. BẢO TỒN CẤU TRÚC KHÔNG GIAN
Từ quan điểm kiến trúc, khu vực 36 phố phường có một số đặc điểm riêng biệt. Hình dạng giống hình ống của ngôi nhà vừa là nhà ở vừa là cửa hàng (shop house) trên miếng đất đặc biệt dài và hẹp, là một điểm đặc biệt của khu phố cổ này. Hơn nữa, đặc điểm không gian cũng là một điểm riêng biệt thậm chí đây là một sản phẩm ngẫu nhiên của các cư dân sinh sống trong khu vực nhằm thích nghi với những dịp luôn thay đổi.
Không gian bên trong lộn xộn như trò chơi xếp hình là một trong những đặc điểm đáng chú ý của khu vực 36 phố phường ngày nay. Mặc dù khu vực này không thể là nơi cư trú thỏa mãn cho một mật độ dân số cao nhưng có thể tạo ra bầu không khí hối hả và náo nhiệt, một điểm hấp dẫn của khu này.
Nhiều nghiên cứu cho thấy cần phải giảm lượng dân cư trong khu vực này để có thể đáp ứng mức sống trung bình trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn đúng với ý tưởng quy hoạch đô thị toàn cầu, sống tập trung cho phép một số lượng dân cư lớn nhất tham gia vào các hoạt động của đô thị sẽ là sự suy xét đúng đắn về cuộc sống ủoõ thũ ủũa phửụng.
Vì vậy, chúng ta nên xem xét một giải pháp nhằm gìn giữ phong cách đô thị bản địa khi nâng cấp mức sống. Bảo tồn đặc điểm không gian của ngôi nhà vừa là nhà ở vừa là cửa hàng (shop house), nơi chứa đựng cuộc sống đô thị và cũng là tinh thể của lịch sử khu phố cổ sẽ là một nhiệm vụ nhằm đưa ra giải pháp cho vấn đề bảo tồn khu phố này.
V. TẠO RA MỘT MÔ HÌNH KIẾN TRÚC MỚI LẠ
Những ngôi nhà đang tồn tại trong khu phố này đã được sử dụng triệt để nhưng hình dáng hiện nay của ngôi nhà vừa là nhà ở vừa là cửa hàng (shop house) được thay đổi phi thể thức theo nhu cầu của người sinh sống trong đó phản ánh một số yêu cầu thông thường đối với nhà ở. Chúng ta có thể nhận ra điều đó qua hình dạng thực của ngôi nhà vừa là nhà ở vừa là cửa hàng (shop house).
Đó có thể là một lựa chọn cho vấn đề bảo tồn nhằm tạo ra một mô hình nhà ở có tính chất đổi mới có thể chứa được số dân có mật độ lớn, đặc điểm không gian tiêu biểu của ngôi nhà được sử dụng làm cửa hàng trong khu phố cổ này.
Để tạo ra mô hình kiến trúc mới, kiến trúc sư Kazuhiro Kijima đã sáng tạo ra phương pháp “khối không gian” và “mô hình tổ ong”.
Khối không gian là một phương pháp thiết kế các khối liên kết một số hình khối với kích thước cơ bản. Kiến trúc, được tạo bởi những khối cơ bản này (BSB: Khối không gian cơ bản) được gọi là mô hình tổ ong.
Mô hình này có thể tạo ra kết cấu không gian đa dạng, kết hợp không gian nội thất với ngoại thất. Thậm chí trong mô hình nhà nhiều tầng đáp ứng yêu cầu tăng diện tích sàn sẵn có hiện nay, mô hình này có thể đảm bảo sự thông gió và ánh sáng bằng cách tạo khoảng sân trong thẳng đứng.
Ngôi nhà thử nghiệm được thiết kế bằng cách sử dụng phương pháp này trên một địa điểm cụ thể trong khu 36 phố phường. Mô hình thực tế này chấp nhận nhiều tầng (4 tầng trong 1 đơn vị nhà ở) có thể tăng diện tích sàn từ 179.9m2 trong ngôi nhà hiện tại lên đến 376m2. Mở rộng diện tích sàn là yêu cầu lớn nhất của các cư dân trong khu vực này, do vậy đây là một điều kiện thiết yếu cho việc thiết kế mô hình này.
Mô hình tổ ong, về mặt tự nhiên, có nhiều khoảng sân lộ thiên ở mỗi góc. Những khoảng không gian này là nơi cư ngụ của lối sống truyền thống Hà Nội quanh các khoảng sân trong. Phân bố những khoảng không gian này được thiết kế nhằm tăng sự thông thóang tự nhiên bằng cách đảm bảo hành lang thông gió. Lắp đặt bảng làm lạnh theo lối này và ngăn hơi nóng của ánh sáng mặt trời trực tiếp bằng cách sử dụng mái đôi, tất cả những nỗ lực này được trang bị nhằm tận dụng sự thông thoáng gió tự nhiên để đảm bảo nhiệt độ không khí bên trong. Một loạt nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra cách hiệu quả nhất để tạo hành lang thông gió.
Hỡnh 3: Kieỏn truực toồ ong (Nguoàn: Kazuhiro Kojima)
VI. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NGÔI NHÀ THỬ NGHIỆM
Ngôi nhà thử nghiệm của hà Nội lúc đầu được đề xuất xây dựng trên địa điểm thực trong khu phố cổ của Hà Nội như đã được đề cập ở trên. Nhóm thực hiện lựa chọn địa điểm và thương lượng với các cư dân cho công trình xây dựng, tuy nhiên, một vấn đề nghiêm trọng phát sinh khiến phải từ bỏ kế hoạch này. Đó là do quyền sở hữu đất quá phức tạp tại địa điểm này. Chỉ một phía đối lập, trong số các chủ sở hữu liên quan đưa đơn kiện có thể ngừng các công trình này.
Nhóm thực hiện đã thất bại trong việc có được sự đồng ý của một chủ đất trên địa điểm mặc dù nhóm đã rất cố gắng.
Nhóm thực hiện đã rời địa điểm xây dựng đến khu đất của Đại học Bách khoa Hà Nội, chỉ cách khu phố cổ vài km về phía Nam. Thời điểm này, các công trình xây dựng có vẻ ổn. Các công ty xây dựng Việt Nam đảm nhiệm các công trình này dưới sự giám sát của các kiến trúc sư Nhật Bản. Tất cả các nguyên vật liệu xây dựng được cung cấp tại Việt Nam ngoại trừ một số trang thiết bị như bảng làm lạnh (radiating cool- ing panel).
Nhờ những nỗ lực của các công nhân tại công trường xây dựng này, ngôi nhà thử nghiệm đã được hoàn thành với mức chi phí bằng mức chi phí xây dựng một ngôi nhà bình thường tại Hà Nội. Đó là một điểm quan trọng cho việc phổ biến mô hình này.
VII. SỬ DỤNG CHƯƠNG TRÌNH NÀY CHO VIỆC BẢO TỒN ĐÔ THỊ
Thông qua mô hình mà nhóm thực hiện đưa ra tại thời điểm này, một điển hình kiến trúc được đưa ra nhằm tôn trọng lối sống quanh khoảng sân trong, phù hợp với cấu trúc đô thị và những mảnh đất hẹp trong khu phố này. Mô hình này được thiết kế nhằm đưa lối sống địa phương vào môi trường rộng mở, đảm bảo sự thuận lợi trong môi trường nhiệt đới. Từ nay, thử nghiệm sẽ tiếp tục tại khu vực này.
Mô hình được đưa ra trong thời điểm này là một hình thức lý tưởng cho khái niệm bảo tồn hình dạng không gian của ngôi nhà được sử dụng làm cửa hàng. Trong trường hợp xây dựng tại địa điểm thực trong khu phố cổ, sự thay đổi mặt ngoài và hình dạng mái nhà về hình dạng đúng với truyền thống hơn có thể được xem xét nhằm tạo cảnh quan thành phố.
Việc sử dụng một phần mô hình này cũng có thể là một lựa chọn nhằm đáp ứng hoạt động khác như bảo tồn những phần cấu trúc còn lại của các ngôi nhà.
Ngày nay, khu vực 36 phố phường không được đồng nhất và các ngôi nhà riêng biệt cần có cách bảo tồn khác nhau.
Những giải pháp khác nhau sẽ được chuẩn bị cho mỗi trường hợp, từ bảo tồn toàn bộ đến xây dựng lại hoàn toàn. Trong bất kỳ trường hợp nào thì đặc điểm này hay đặc điểm khác của khu phố cổ này cần được kế thừa dưới danh nghĩa bảo tồn thành phố lịch sử. Mô hình này có thể là một giải pháp cho khu phố cổ này.
Liệu mô hình này có giá trị đáp ứng yêu cầu này không? Cư dân sống trong khu phố cổ đánh giá như thế nào về mô hình này? Những câu hỏi này có thể quyết định vận mệnh của ngôi nhà thử nghiệm.
Hình 4: Mô hình nhà thử nghiệm (Nguồn: Kato và những người khác) TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Shunsuke Kato, Shuzo Murakami, Koichi Tanakashi và Hidekuni Magaribuchi (2003) Mô hình Hà Nội/Mô hình Tokyo-Sự phát triển các mô hình nhà ở và đô thị cho khu vực đông dân với nỗi lo lắng môi trường tối thiểu trong khí hậu nóng và ẩm. Tokyo: với các nguồn tài trợ, Quỹ Phát triển khoa học Nhật Bản (Japan Society for Promotion of Science), Japan (tiếng Nhật).
2- Maramatsu Shin và những người khác (1996), Betonamu Kentiku Daihakuran (Bức tranh toàn cảnh về kiến trúc Việt Nam), SD, tháng 3-1996, Tokyo: Kajima Shuppan-Kai (Tạp chí Kiến trúc Kajima, tiếng Nhật).