CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỚ LÝ THUYẾT VỀ XƯNG HÔ
1.3. CÁC NG Ữ VỰC * CHI PH ỐI CÁCH SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ
* Khái niệm ngữ vực (registers) được dùng rộng rãi trong Xã hội ngôn ngữ học (Socio-Linguistics). Trong ngữ âm học thuật ngữ registers được dịch là âm vực - chỉ độ cao thấp, to nhỏ của âm thanh. Trong Xã hội ngôn ngữ học thuật ngữ Registers chỉ những biến thể ngôn ngữ phụ thuộc vào người sử dụng trong những ngữ cảnh giao tiếp khác nhau.
1. 3.1. VAI GIAO TIẾP VÀ VỊ THẾ XÃ HỘI CỦA NHÂN VẬT GIAO TIẾP.
Nhân vật giao tiếp là một Mong nhũng nhân tố của hôạt động giao tiếp. Hôạt động giao tiếp bao gồm các nhân tố: nhân vật giao tiếp, thực tế được nói tới, hôàn cảnh giao tiếp, hệ thống tín hiệu được sử dụng làm công cụ. (Xem [23] ).
Nhân vật giao tiếp bao gồm người phát và người nhận. Khi chỉ có hai nhân vật tham gia hội thoại thì hình thức hội thoại đó được gọi là song thoại. Nếu như ba nhân vật cùng tham gia vào cuộc thoại thì hình thức hội thoại đó được gọi là đa thoại. Hình thức hội thoại
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc32 of 141.32
lớn nhất, phức tạp và phông phú nhất là hình thức đa thoại. Chúng tôi chỉ nghiên cứu cuộc thoại song thoại - cuộc thoại được thực hiện bởi hai nhân vật hội thoại.
Theo quan điểm hội thoại, người phát được gọi là vai người nói, người nhận được gọi là vai người nghe. Trong quá trình hội thoại sẽ có sự luân phiên thay đổi vai trò người nói, người nghe giữa các nhân vật hội thoại. Tác giả Đỗ Hữu Châu viết: "Trong quá trình giao tiếp, người nhận có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực. Người nhận tích cực khi anh ta luôn thay đổi vai trò người nhận - người phải, khi giao tiếp diễn ra ở hai chiều. Người nhận tiêu sực khi anh ta luôn giữ vai trò người nhận trong suốt quá trình giao tiếp, nghĩa là khi giao tiếp chỉ diễn ra một chiều" [23,43]
Điều đáng chú ý là, dù giao tiếp diễn ra một chiều hay hai chiều thì người phát không phải muốn phát đi cái gì thì phát, "phát theo cách gì cũng được. Bởi vì, người nhận là chủ thể tích cực có nhận thức và ý chí riêng. Giữa người phát và người nhận có những mối quan hệ xã hội nào đấy chô nên người phát không thể không cân nhắc trước khi gửi đi một thông điệp - cân nhắc về hình thức và nội dung của thông điệp. Trong xưng hô, trước một đối tượng cụ thể, người phát phải xác định được trục quan hệ để tựa chọn từ xưng hô chô thích hợp.
Trên thực tế, con người luôn ở vào thế giao tiếp với nhiều lớp người, loại người khác nhau về địa vị xã hội, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn ... Vì thế, mỗi cá nhân bao giờ cũng có một bộ vai giao tiếp phản ánh quan hệ ứng xử của từng cá nhân đó.
Mỗi vai được xác lập từ một cặp vai. Quan hệ xã hội của cá nhân càng phông phú thì số lượng vai càng lớn, do đó bộ vai giao tiếp của cá nhân đó càng lớn. Mội cặp vai có hình thức ngôn ngữ riêng trong ứng xử xã hội, tương ứng với một biến thể ngôn ngữ cá nhân của vai đó. Nói rõ hơn, mỗi bộ vai có một bộ các biến thể ngôn ngữ đặc trưng chô vai. Trong quan hệ gia đình, một cá nhân thường có các cặp vai : cha, mẹ - con, ông, bà - cháu, anh, chị - em, vợ - chồng, dâu - rể ... Trong quan hệ xã hội là các cặp vai như thủ trưởng - nhân viên, thầy giáo - học sinh, bác sĩ -bệnh nhân...
Trong quan hệ vai, căn cứ vào các qui tắc và thiết chế xã hội, qua các từ xưng hô (cùng những yếu tố từ vựng khác ) chúng ta có thể nhận biết được vai nào ở vị thế trên, vai nào ở vị thế dưới. J.Lyons viết : "Trong phần lớn những tương tác xã hội, những người tham dự không có một khó khăn nào để quyết định họ có cùng hay không cùng vị thế xã hội.
Trong trường họp vị thế xã hội không bình đẳng thì người nào là bậc trên, người nào là bậc
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc33 of 141.33
dưới cũng được xác định một cách dễ dàng. Ví dụ, bố mẹ là bậc trên so với con cái, thầy giáo là bậc trên so với học trò. Có thể phụ thuộc vào giới tính như phụ nữ ở bậc trên so với đàn ông. Căn cứ vào yếu tố tuổi tác thì những người nhiều tuổi ở bậc trên những người trẻ hơn và một loạt những nhân tố khác nữa ... Trong trường hợp vị thế bình đẳng thì họ có ý xưng khiêm hô tôn. Đây là điều phổ biến trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới ". [148, 265]
Rõ ràng, vị thế xã hội của các nhân vật hội thoại ảnh hưởng trực tiếp đển việc tựa chọn và sử dụng từ xưng hô. Bởi vì, trước người có vị thế trên, ego phải dùng từ xưng hô khác với người ở vị thế dưới (so với ego) hay vị thế ngang bằng.
Nhiều quan sát chô thấy, trước người có vị thế cao hơn mình, ego thường có xu hướng sử dụng nhũng từ xưng hô chuẩn mực với sắc thái lịch sự, kính trọng hôặc ít nhất là trung hôà về sắc thái biểu cảm.
Đối với người có vị thế ngang bằng, nhân vật hội thoại thường có ý xưng khiêm hô tôn (nhất là trong ngữ cảnh giao tiếp qui thức). Ở ngữ cảnh giao tiếp không qui thức, các nhân vật có vị thế ngang bằng có thể sử dụng các từ xưng hô với đầy đủ các sắc thái thân mật, lịch sự hay suồng sã ...
Có thể nói, từ xưng hô có tác dụng bộc lộ vị thế xã hội (chức năng định vị của từ xưng hô) của các nhân vật hội thoại. Đồng thời vị thế xã hội của các nhân vật hội thoại lại chi phối tới chức năng định vị và chức năng biểu thái của từ xưng hô như chúng tôi vừa trình bày ở trên. Đây là mối quan hệ qua lại giữa chức năng của từ xưng hô với vị thế "Xã hội"
của nhân vật sử dụng từ xưng hô.
Vị thế xã hội là địa vị xã hội của cá nhân được xác lập trong quan hệ với các thành viên khác trong một nhóm, một công đồng và một xã hội.
Như vậy, do quan hệ giữa người với người mà chúng ta có thể tạo lập và xác định được vị thế của các nhân vật hội thoại. Quan hệ được nói tói ở đây trước hết là quan hệ giữa các cặp vai trong toàn bộ vai của nhân vật giao tiếp. Do đó, có thể nói, vai giao tiếp là cơ sở, trên cái cơ sở đó, các nhân vật tương tác tổ chức và biểu hiện vị thế xã hội của mình trong giao tiếp. Chẳng hạn, trong quan hệ giữa con dâu và mẹ chồng thì người mang vai là con dâu - biểu thị chô người ở vị thế thấp so với mẹ chồng - biểu thị chô người ở vị thế trên.
Có thể coi quan hệ giữa vai giao tiếp và vị thế xã hội của nhân vật hội thoại như là mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện. Trong đó, vai giao tiếp đóng vai trò là cái biểu
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc34 of 141.34
hiện, vị thế xã hội đóng vai trò là cái được biểu hiện. Nói cách khác, vai giao tiếp là sự biểu hiện vị thế xã hội của nhân vật hội thoại.
Vị thế xã hội có thể được chia thành hai nhóm: Vị thế thường xuyên và vị thế giao tiếp. Vị thế thường xuyên được đặc trưng bởi giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp. Vị thế giao tiếp (vị thế lâm thời) được tạo thành từ quan hệ giữa các cặp vai giao tiếp. Thuộc vị thế giao tiếp là các cặp vai như thủ trưởng - nhân viên, thầy giáo - học sinh, cha, mẹ - con cái, bác sĩ - bệnh nhân...Vị thế giao tiếp bao gồm vị thế chủ động nêu lên vấn đề / vị thế đáp ứng những vấn đề được đưa ra, vị thế chế ngự / vị thế bị chế ngự, vị thế cao / vị thế thấp...
Thông thường, người ở vị thế cao như giám đốc so với nhân viên, cha mẹ so với con cái bao giờ cũng ở vị thế chủ động, vị thế chế ngự. Nhưng nhiều khi những người ở vị thế cao lại rơi vào vị thế bị động, bị chế ngự so với người ở vị thế thấp. Chẳng hạn, một giám đốc vô tình rơi vào "bẫy" của nhân viên mình và bị anh ta đưa ra những yêu cầu bắt giám đốc phải thực hiện. Trong tình thế giao tiếp này, vai giám đốc bị đẩy vào tình thế bị động, bị chế ngự. Ví dụ sau chúng minh chô điều vừa nói trên:
- "Anh đừng lo, tôi có thể tìm một chỗ khác thích hợp chô anh. Với mấy đứa viết đơn ấy, anh cứ để tôi dạy báo chúng nó.
Bách hỏi như buột miệng, - Điều kiện ?
Những tia sáng nhọn hôắt bắn ra từ hai con mắt nhỏ tí:
- Anh phải làm đơn xin từ chức " [7,34 ].
Ở đoạn văn trên, Bách là giám đốc, người đưa ra điệu kiện là nhân viên của Bách.
Trong suốt câu chuyên, nhân viên của Bách vẫn xưng "tôi" và gọi Bách là "anh" chô đển khi Bách bị rơi vào tình thế bị chế ngự thì cách xưng hô đó vẫn giữ nguyên. Như vậy, khi có sự thay đổi vị thể giao tiếp (nhất là khi người ở vị thế thấp trở thành vị thế chế ngự ) thì vị thế giao tiếp thường thể hiện qua nội dung của thông điệp, còn từ xưng hô có thể vẫn được giữ nguyên.
Vị thế trên / dưới của các nhân vật hội thoại được xác định từ nhiều tiêu chí như tuổi tác, giới tính, chức vụ, quan hệ gia tộc.
Vị thế trên / dưới được xác định theo quan hệ gia tộc cũng mang những nét đặc trưng văn hôá của từng dân tộc. Trong gia tộc người Việt, con của "bác" bao giờ cũng được gọi là luan van thac si su pham,luan van ths giao duc35 of 141.35
"anh", là "chị" và ở vị thế trên so với con của "chú", "cô", "cậu", "dì" ... chô dù con của
"bác" có thể ít tuổi hơn con của "chú", "cô" ... Đó là nguyên tắc xưng hô theo dòng trực hệ / phụ hệ.
Trong gia tộc người Nùng tình hình lại khác, giữa con "bác" và con của "cô", "dì"
"chú", "cậu" ... ai nhiều tuổi hơn, ai thấy mặt trời trước thì người đó là anh là chị.
Qua việc sử dụng từ xưng hô nói riêng và việc sử dụng ngôn ngữ nói chung, chúng ta có thể nhận biết được vị thế của các nhân vật giao tiếp cùng các sắc thái biểu cảm kính trọng / khinh thường, thân mật / suồng sa hay trung hôà về sắc thái biểu cảm. Nói cách khác, vị thế xã hội để lại dấu ấn hết sức đậm nét trong ứng xử ngôn ngữ của con người.
Tóm lại, để cuộc thoại duy trì và phát triển theo chiều hướng dự định, người giao tiếp phải nhận thức được chính bản thân mình trong quan hệ với người đối thoại, đồng thời phải đoán nhận được hình ảnh cua người đối thoại với tất cả thuộc tính về động cơ, mục đích, nhân cách, địa vị xã hội, học vấn và hôàn cảnh trong đó giao tiếp diễn ra. Bởi trong giao tiếp không có người nói và người nghe trừu tượng mà luôn luôn là người nói và người nghe cụ thể gắn với một tình huống cụ thể. Nói cách khác, nhân vật giao tiếp luôn luôn ở vào một địa vị nhất định theo các qui tắc, thiết chế và chuẩn mực xã hội. Do đó, để có được một phát ngôn thôả đáng xã hội, nhân vật hội thoại khống những phải định vị được vị thế của mình mà còn phải xác định và định vị được vị thế của người đối thoại. Trong xưng hô cũng vậy, muốn xưng hô chô đúng, xưng hô chô hay thì nhân vật hội thoại phải xác định được dùng vị thế của mình cũng như vị thế của người đối thoại.
Khái niệm vị thế của nhân vật giao tiếp có mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm quyền uy (Power) của nhân vật giao tiếp. Đây là mối quan hệ tỉ lệ thuận. Người có vị thế cao thường là người có quyền uy so với người ở vị thế thấp.
Năm 1990 tác giá R.A Hudson viết "Mỗi khi một người nào đó viết hôặc nói, anh ta không chỉ đặt mình trong mối quan hệ với toàn bộ thành phần xã hội còn lại mà còn liên kết hành động của anh ta với những cách phân loại của các hành vi giao tiếp. Sơ đồ đó có dạng là một ma trận nhiều chiều, giống như bức tranh về xã hội mà anh ta đã dựng nên trong óc mình" [140, 89].
Trong hôạt động giao tiếp, sự chi phối của Power tới sự tựa chọn và sử dụng từ xưng hô rất rõ ràng. Trong tiếng Việt, xưng hô dường như quyền uy chi phối cái thân hữu. Dĩ nhiên, giữa những người có vị thế ngang bằng như bạn - bạn thì tính quyền uy không thành luan van thac si su pham,luan van ths giao duc36 of 141.36
vấn đề. Nhiều quan sát chô thấy, khi A = B, nếu A và B là hai người đã quen biết nhau một cách thân tình thì trong xưng hô (rộng hơn là trong ngôn ngữ của họ) thường rất sinh động, ít tính chuẩn mực. Lúc này, cái thân hữu nổi lên và cái quyền uy "lắng" xuống.
Nhưng xưng hô với người trên thì cái quyền uy lại cần được xem trọng. Nếu A có vị thế xã hội thấp hơn B thì ngôn ngữ của A mang tính chất từ tốn, nhũn nhặn, dùng nhiều từ ở thức giả định; nếu, nếu được, có thể.... Và trong xưng hô, A sẽ gọi B bằng các từ chỉ vị thế cao hơn mình như anh, ông, bà, chú ... hay các từ chỉ chức vụ như thủ trướng, giám đốc ....
Nghĩa là A phải dùng các yếu tố của trục dọc - những từ xưng hô thể hiện quan hệ phi đối xứng để giao tiếp với B. Đối với những người có vị thế cao hơn mình, nhân vật hội thoại hầu như không dùng đại từ, đặc biệt là đại từ ngôi thứ hai để xưng hô. Bởi vì, trong hệ thống đại từ xưng hô của tiếng Việt không có đại từ ngôi thứ hai với sắc thái trân trọng. Vì thế, không thể dùng đại từ ngôi thứ hai để chỉ những người có quyền uy hơn mình.
Sự chi phối của tính quyền uy trong xưng hô không có tính cân xưng. Nghĩa là, người có quyền uy có thể dùng cách xưng hô thân thuộc với cấp dưới của mình nhưng người cấp dưới trả lời lại phải dùng từ xưng hô chỉ người có quyền tực - cấp trên của mình, chứ không để dùng xưng hô như cấp trên đã dùng để xưng hô với mình. Chẳng hạn như tiếng Pháp, dùng Vous ngôi thứ hai là trang trọng, còn khi thân mật dùng tu. Người có quyền uy dùng tu với người ở vị thế thấp nhung người ở vị thể thấp không thể dùng tu để gọi cấp trên của mình.
Như vậy, người có quyền uy sẽ có một khôảng rộng hơn để tựa chọn các từ xưng hô chỉ cấp dưới của mình. Họ có thể dùng đại từ, hay tên riêng hôặc các cách xưng hô xác định như bố Hùng, mẹ sắp nhỏ... Ngươc lại, dù cấp trên có nghiêm túc hay thân mật với mình như thế nào chăng nữa thì trong cách xưng hô, cấp dưới không thể vượt qua được quyền uy của cấp trên.
Sự định vị của người có quyền uy cũng rộng rãi hơn. Hô có thể tự xưng là tao, tôi hôặc bằng các danh từ thân tộc như ông, bà, chú, bác... trước cấp dưới. Chẳng hạn, thầy giáo có thể nói với học sinh mình:
- Hồi trẻ tao học ngoại ngữ rất nhanh (1) - Hồi trẻ tôi học ngoại ngữ rất nhanh (2)
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc37 of 141.37
Cách xưng tao của người thầy ở ví dụ (1) là tỏ ra thân mật với học trò (dĩ nhiên trong trường họp có 1, 2 học trò thân thiết và không phải ở mọi trường giao tiếp qui thức). Và trong những trường hợp này, học trò cũng chỉ có một kết cấu em - thầy để xưng hô với thầy mình mà thôi. Như vậy, người có vị thế cao, có quyền uy có thể tựa chọn các yếu tố ở trục dọc hay trục ngang (trong quan hệ liên cá nhân) để giao tiếp với người có vị thế thấp hơn mình.
Nếu người nói mà dùng những từ chỉ độ thân hữu cao thì lại tỏ ra mình có quyền tực lớn trong quan hệ nói - nghe.
Tính quyền uy cũng thể hiện trong nguyên tắc xưng hô, chúng ta đều tuổi, "xưng khiêm, hô tôn" là một nguyên tắc xưng hô có tính phổ quát cao trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Trong tiếng Nùng, người có quyền uy có thể dùng các danh từ thân tộc như cúng, má, dè, xúc , ... để xưng với người ít tuổi hơn mình. Cách xưng hô này cũng là lấy yếu tố của trục dọc để tạo sự gần gũi trong quan hệ nói - nghe. Nhưng để tỏ ra khiêm tốn, người có quyền uy dùng từ khỏi lạiđể tự xưng. Từ này chỉ được những người ở vị thế cao - quyền uy sử dụng.
Thực ra, tính quyền uy không chỉ thể hiện trong từ xưng hô, mà nó còn thể hiện ở các yếu tố từ vựng khác nữa. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu tính quyền uy chi phối từ xưng hô trong hôạt động giao tiếp như vừa trình bày ở trên.
1.3.2. TÍNH QUI THỨC (FOKMAL) VÀ KHÔNG QUI THỨC (INFOKMAL) CỦA NGỮ CẢNH GIAO TIẾP.
Những ứng xử ngôn ngữ của con người phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh giao tiếp.
Cùng một quan hệ vai như cha - con chẳng hạn, trong ngữ cảnh giao tiếp qui thức (Formal) sẽ có những biến thể ngôn ngữ khác với những biến thể ngôn ngữ trong ngữ cảnh không qui thức (Informal) .
Năm 1974, Petei Trudgill nhận xét "Tính qui thức trong thực tế không phải là cái dễ xác định. Vì trong tính chất này bao gồm nhiều nhân tố như quen thuộc, họ hàng, lịch sự, nghiêm túc .... Nhưng tất cả mọi người đều có ý thức khá rõ ràng về tính qui thức tương đối và tính qui thức không tương đối của một biến thể ngôn ngữ nào đó trong ngôn ngữ của chính mình" [143, 110].
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc38 of 141.38