CHƯƠNG 3: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG DANH TỪ THÂN TỘC TRONG
3.3. XƯNG HÔ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG
Từ xưng hô và cách xưng hô giữa vợ - chồng trong gia đình người Việt rất phông phú và đa dạng, thể hiện các cung bậc tình cảm cũng như các giai đoạn của đời sống vợ - chồng.
Các cách xưng hô, các từ xưng hô được vợ chồng người Việt sử dụng trong giao tiếp với nhau có thể là anh<->em, tôi - mình, tôi – cô, tôi – anh, anh – tên, em – tên, tên – tên ... Có thể lấy điểm góc là con, cháu (gọi thay ngôi) để gọi vợ hôặc chồng như trong cách nói , "Bố Hải có đi làm không đấy ? "Mẹ Huyền mặc áo này đẹp lắm"...
Ngược lại, các từ xưng hô và các cách xưng hô giữa vợ - chồng trong gia đình người Nùng tương đối đơn giản. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể miêu tả được các từ xưng hô, các cách xưng hô giữa vợ - chồng người Nùng nhằm tìm ra những điểm riêng biệt mang dấu ấn của phông tục tập quán của người Nùng.
Chúng tôi tìm hiểu cách xưng hô giữa vợ - chồng người Nùng ở ba giai đoạn : - Xưng hô giữa vợ - chồng khi chưa có con.
- Xưng hô giữa vợ - chồng khi có con.
- Xưng hô giữa vợ - chồng khi có cháu.
3.3.1. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CHƯA CÓ CON.
Đặc điểm dễ nhận thấy trong quan hệ vai giữa vợ - chồng người Nùng khi chưa có con là sự thiếu vắng từ xưng hô. Hiện tượng thiếu vắng từ xưng hô chỉ diễn ra vào giai đoạn đầu của đời sống vợ chồng. Phải chăng phông tục hôn nhân của người Nùng đã để lại dấu ấn trong ứng xử của các cặp vợ chồng trẻ mà xưng hô là một bằng chứng ? Như chúng ta đều biết, cô dâu người Nùng sau ngày cưới lại trở về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Ngày lễ lết hay có luan van thac si su pham,luan van ths giao duc96 of 141.96
công viẹc mới sang nhà chồng. Chỉ khi nào có con họ mới về ở hẳn nhà chồng. Mặc dù là vợ chồng nhưng do phông tục họ có ít cơ hội tiếp xúc, gần gũi nhau nên trong ứng xử có nhiều phần ngượng ngùng. Khi gặp nhau (ở giai đoạn đầu) họ không biết xưng hô với nhau như thế nào. Vì thế, trong các phát ngôn của vợ - chồng người Nùng ở giai đoạn này thường thiếu vắng từ xưng hô. Ví dụ :
- Pó ( chồng ) : Au mà náy ý nặm cón.
(Lấy về đây ít nước đã) Mẻ (vợ) : Tẳng ý cón
(Đợi chút đã)
- Mẻ (vợ) : Ma kin kháu dáy da.
(Về ăn cơm được rồi) Pó ( chồng ) : Mừ kin cón pay
(Về ăn trước đi)
Ở những câu thiếu vắng từ xưng hô, xét về mặt ngữ pháp là những câu tỉnh lược hết sức ngắn gọn, thường ở dạng mệnh lệnh thức. Lối nói trống không trong xưng hô giữa vợ - chồng người Nùng là kiểu xưng hô tình thế. Nghĩa là cách xưng hô này thể hiện (hôặc nhằm giải quyết một cách vô thức) tình cảm còn lúng túng ngượng ngùng của đôi vợ chồng . vì thế cách xưng hô này trung hôà về sắc thái biểu cảm. Điều nay khác với người Việt. Ở người Việt, “các cặp vợ chồng ở vào tình trạng trên hầu như không thích và tránh nói chuyện với nhau. Họ chỉ nói và cần nhau những thông tin tối cần thiết mà thôi” [46, 47].
Tất nhiên, muốn xưng hô trống không thì các nhân vật tương tác phải sử dụng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ ... để người đối thoại biết là thông tin đang hướng về họ - họ là người nhận thông tin. Chúng ta gọi cử chỉ, điệu bộ của nhân vật giao tiếp là những yếu tố kèm ngôn ngữ. C.K Orecchinoni gọi cách ứng xử kèm ngôn ngữ là "một vũ điệu giữa những nhân vật tương tác". [Dẫn theo 24]
Khi tình cảm hai bên trở nên gần gũi, thân mật hơn thì vợ chồng người Nùng dùng cặp đại từ ngò (tôi) ngôi thứ nhất - nì (bạn, cậu) - ngôi thứ hai để xưng hô với nhau. Ví dụ.:
Pó (chồng) : Nì mà hung bắn?
(Em về lâu chưa ?)
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc97 of 141.97
Mẻ (vợ) : Ngò ngám mà (Em mới về)
Vì sắc thái thân mật, gần gũi của cặp đại từ ngò - nì nên trong quan hệ vai giữa vợ - chồng, chúng tôi chuyển dịch là anh - em. Như thể ngò -nì trong tiếng Nùng có tính khái quát cao, chúng bao hàm ca nghĩa là có - noọng (anh - em).
Trong tiếng Nùng cũng có cặp từ xưng hô anh - em (có - noọng) nhưng cặp từ này hầu như không được dùng trong xưng hô giữa vợ - chồng, chô dù là vợ chồng son. Điều này khác với lối xưng hô của vợ - chồng người Việt. Ở những cặp vợ - chồng Nùng đã thôát ly khỏi làng bản lâu năm, hay công tác ở các xí nghiệp công sở của nhà nước họ có thể xưng hô anh - em với nhau. Nhưng đó cũng chỉ là giao tiếp, xưng hô bằng tiếng Việt.
Như vậy, khi chưa có con, vợ - chồng người Nùng thường xưng hô theo hai cách : Thứ nhất là kiểu gọi trống không – không có từ xưng hô, ở giai đoạn đầu của đời sống vợ - chồng cách xưng hô này thường xuyên được sử dụng.
Thứ hai là dùng đại từ xưng hô đích thực : ngò - nì.
3.3.2. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CÓ CON.
Khi có con, vợ - chồng người Nùng chủ yếu gọi nhau kèm theo tên con đầu lòng của mình. Đó là cách gọi theo cấu trúc : tên vai thiên chức pá (bố), mé (mẹ) + tên con đầu lòng.
Chẳng hạn đứa con đầu lòng tên là Kham (Kham la con trai) thì họ sẽ gọi nhau là pà ò Kham (bố thằng Kham), mé Kham (mẹ thằng Kham). Nếu có con gái đầu lòng (tên là Nết chẳng hạn), vợ chồng người Nùng sẽ gọi nhau là: pá tu Nết (bố con Nết), mé tu Nết (mẹ con Nét). Ví dụ :
Pó (chồng) : Mé tu Nết kin pắn mí ? (Mẹ cái Nết ăn bún không?) Mé ( vợ ) : Ngò kin đá
(Tôi ăn lối)
Đây là lối xưng hô hết sức thân mật giữa vợ - chồng người Nùng. Vì thể, kiểu xưng hô này được sử dụng ở những hôàn cảnh giao tiếp rất trang trọng như cưới hỏi, sinh nhật, mừng nhà mới ...
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc98 of 141.98
Ở cấu trúc xưng hô trên, các yếu tố chỉ giống như ò (thằng), tu (con) không phải là bắt buộc. Trong cách gọi nhau kèm tên con ở vợ chồng người Nùng thường thấy cấu trúc: tên vai thiên chức Pá (bố), mé (mẹ) + tên con đầu lòng. Ví dụ:
Pá Nết: bố Nết Mé Nết: mẹ Nết
Khi vợ - chồng người Việt có rất nhiều cách xưng hô với nhau như tên vai thiên chức bố mẹ + tên riên của người đó:
- Mẹ Minh chô con uống thuốc chưa ? (tên vợ là Minh)
- Bố Hùng đèo con vào nhà bà ngoại nhé ! (tên chồng là Hùng)
Cũng có khi vợ - chồng người Việt gọi nhau bằng vai thiên chức như "Mẹ đưa chô bố con dao" hay xưng hô với nhau theo cấu trúc: tên vai thiên chức bố, mẹ + mày, nó như trong cách nói “Mẹ mày là chô bố cái quần với”...[Xem 46]. Ở vợ chồng người Nùng không có những cách xưng hô như vậy. Nghĩa là họ không xưng hô với nhau bằng vai thiên chức đơn lẻ mà phải xưng hô theo cấu trúc vai thiên chức + tên người con như ở tên. Bởi vì, chỉ có con cái mới gọi cha mẹ là pá, mé. Vợ chồng không không gọi nhau là pá, mé chô dù đó là cách gọi thay vai. Có lẽ, để tránh chô trẻ nhỏ có thói quen không gọi tên tục của người lớn nên trong xưng hô giữa vợ chồng người Nùng không có cấu trúc: tên vai thiên chức bố, mẹ + tên của người đó (người bố hôặc mẹ) = bố Hùng, mẹ Thuý như trong cách xưng hô của vợ chồng người Việt. Có thể nói, do ảnh hưởng của văn hôá người việt, những cặp vợ chồng trẻ người Nùng vẫn xưng hô với nhau theo cấu trúc: tên vai thiên chức pá (bố), mé (mẹ) + tên của người đó. Ví dụ : (Tên người vợ là Hôa)
- Mé Hôa đay slảo lai vớ ! (Mẹ Hôa xinh gái quá !)
Gọi nhau kèm tên con trong xưng hô giữa vợ - chồng người Nùng không chỉ đơn thuần là một cách xưng hô mà nó còn biểu lộ niềm hạnh phúc, tự hào, là dấu son đánh dấu sự trưởng thành tốt đẹp (đã có con) trong đời sống vợ chồng. Điều cần khẳng định là cách xưng hô này đã, đang và sẽ tồn tại cùng những phông lục, tập quán tốt đẹp của người Nùng.
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc99 of 141.99
3.3.3. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CÓ CHÁU.
"Điểm nút" để vợ - chồng người Nùng thay đổi cách xưng hô là khi họ có cháu. Ở thời điểm này, khi chỉ có hai người với nhau, họ gọi nhau một cách thân mật là lạo ké (ông già) đả ké (bà già). Ví dụ :
- Mẻ (vợ) : Lạo ké kin chúc sláy mí ? (Ông già ăn cháo lòng không ?) Pỏ (chồng) : Mí, kin còn pay.
(Không, ăn trước đi)
Pỏ (chồng) : Dá ké pay hang mư đá á ? (Bà già đi chợ về rồi à?).
Mẻ(vợ): Háng náy cau mí slự đáy lăng.
(Chợ này tôi không mua được gì)
Trong khi đó ở người Việt, nếu vợ - chồng gọi nhau là "ông già", "bà già" là biểu thị thái độ thiếu tôn trọng nhau. Đặc biệt, những người ít tuổi mà gọi những người cao tuổi là
"ông già", "bà già" sẽ bị coi là hỗn láo, thiếu văn hôá. Đấy cũng là nét khác nhau về sắc thái của từ xưng hô giữa tiếng việt và tiếng Nùng.
Khi muốn trỏ về người chồng hôặc người vợ với tư cách là ngôi thứ ba với thái độ trân trọng, người Nùng cũng có thể dùng từ lạo ké, giá ké. Ví dụ :
A : Cúng kin láu xáu lan (Ông uống rượu với cháu) B : Giá ké mí hứ kin vớ.
(Bà già không chô uống đâu)
Để nói về vợ hôặc chồng với tư ca1chla2 ngôi thứ ba, vợ chồng người Nùng (lúc còn trẻ cũng như khi về già) có thể dùng đại từ ngôi thứ ba, số ít min (nó). Ví dụ:
A : Ché fú dú lừn mí ché ? (Anh rể ở nhà không hả chị ?) B : Min pay háng đá.
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc100 of 141.100
(Nó đi chợ rồi)
Đại từ min (nó) trong tiếng Nùng trung hôà về sắc thái biểu cảm. Vì thế khi sử dụng min để trỏ vợ hôặc chồng thì cũng không bị coi là cách nói suồng sã, thiến tôn trọng người được nói tới (ngôi thứ ba). Trong giao tiếp ở người Nùng, những người ở vị thế thấp như con, cháu :.. vẫn có thể dùng đại từ min để trỏ những người ở vị thế cao (trường họp người ở vị thế cao không có mặt trong hội thoại). Vì thế, tính khái quát của đại từ min gần với tính khái quát của đại từ she, he trong tiếng Anh.
Khi có cháu (đặc biệt là trước người lạ) các cặp vợ - chồng người Nùng gọi nhau kèm theo tên của đứa cháu lớn. Cấu trúc xưng hô là danh từ thân tộc cúng (ông), má (bà) + danh từ chỉ giống tu (con - nếu là cháu gái), o (thâng - tên là cháu trai ) + tên người cháu. Ví dụ :
- Cúng ò Eng leng bắn ? (Eng là tên cháu ) (Ông thằng Eng khôẻ chưa ?)
- Má tu Hóng hăn cáy làu dú càu mí ? (Bà cái Hóng thấy gà nhà mình đâu không).
Đây là cách xưng hô trang trọng thường đượcsử dụng rộng rãi trong cả hai ngữ cảnh giao tiếp informal và formal. Cách xưng hô này thể hiện vị thế của nhân vật hội thoại : những người đã lên chức ông, bà.
Tóm lại, do chịu chi phối bởi nguyên tắc chung trong xưng hô của người Nùng là tránh gọi tên riêng của người đối thoại nên trong quan hệ vai giữa vợ và chồng, người Nùng hầu như không dùng các kết cấu xưng hô tên - tên, em - tên, anh - tên như trong xưng hô giữa vợ - chồng người Việt. Thay vào đó, vợ - chồng người Nùng chủ yếú xưng hô với nhau bằng các đại từ xưng hô ngò - nì (khi còn trẻ), cau - mưng (lúc về già) hay cách gọi trống không - thiếu vắng từ xưng hô hôặc kiểu hô gọi kèm theo tên con, cháu của mình. Chức vị của vợ - chồng cũng được bộc lộ qua cách gọi kèm tên con, tên cháu - nghĩa là họ đã ở bậc cha, mẹ hôặc ông, bà.
Có con hay chưa có con, lúc còn trẻ hay khi về già...là những nhân tố cơ bản tác động, chi phối tới cách xưng hô giữa vợ - chồng người Nùng.
Ở phần trên, chúng tôi nói rằng khi còn trẻ vợ chồng người Nùng dùng đại từ ngò - nì để xưng hô với nhau và khi về già họ mới dùng đại tù cau - mưng. Phải chăng, khi về già, vợ chồng người Nùng có xu hướng xưng cau - mưng với nhau với sắc thái lịch sự vốn có luan van thac si su pham,luan van ths giao duc101 of 141.101
(nghĩa gốc) của cặp đại từ này? Nếu chúng ta hiểu được nghĩa gốc của đại từ cau - mưng, hiểu được câu nói của người Nùng " Mưng - cau dàu mạ" (không được mày tao chí tớ) thì sẽ không bao giò nghĩ, và chuyển dịch cặp từ cau – mưng = mày - tao trong xưng hô giữa vợ chồng người Nùng. Thực ra, việc định ranh giới như vậy chỉ là tương đối. bởi vì, ở nhiều cặp vợ chồng người Nùng, các cặp đại từ trên vẫn được dùng đan xen nhau trong quan hệ vai vợ - chồng của họ.