XƯNC HÔ GIỮA ANH, CHỊ - EM Ở TUỔI KHÔN LỚN VÀ CÓ GIA ĐÌNH RIÊNG

Một phần của tài liệu CÁC CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG NÙNG (Trang 105 - 109)

CHƯƠNG 3: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG DANH TỪ THÂN TỘC TRONG

3.4. XƯNG HÔ GIỮA ANH, CHỊ VÀ EM TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG

3.4.2. XƯNC HÔ GIỮA ANH, CHỊ - EM Ở TUỔI KHÔN LỚN VÀ CÓ GIA ĐÌNH RIÊNG

Khi khôn lớn, môi trường tiếp xúc của trẻ ở lứa tuổi này không còn bó hẹp trong phạm vi gia đình mà đã mở rộng ra làng bản, trường lớp ... Sự ý thức về thứ bậc giữa anh, chị và em ở lứa tuổi này đã rõ ràng hơn nên cách gọi tên riêng của anh, chị và tự xưng mình là cau ít được sử dụng. Bởi lẽ, kiểu xưng hô này tỏ ra khiếm nhả với bậc trên. Nhưng cách gọi anh, chị theo cấu trúc : danh từ thân tộc (anh) , ché (chị) + tên riêng vẫn được sử dụng. Cách gọi này dẫu sao vẫn nhã nhặn hơn chô dù gọi tên riêng của bậc trên. Bởi vì, danh từ thân tộc có, ché đứng trước tên riêng đã làm chô cách xưng hô này trở nên tình cảm hơn.

Người anh, người chị thường xưng có, ché với các em như là sự khẳng định, sự ý thức về thứ bậc của mình. Điều này tạo chô xưng hô giữa anh, chị và em có xu hướng tiến tới sự chuẩn mực.

Ở tuổi học đường, một đứa trẻ người Nùng có thể có vài người anh, người chị và ngược lại, anh chị cũng có thể có vài người em. Từ đây, xuất hiện kiểu xưng hô theo thứ bậc giữa anh, chị và em. Trong tiếng Nùng, các từ tài có, slám có...là chỉ anh cả, anh ba...các từ tài ché, dì ché...chỉ chị cả , chị hai...Ví dụ:

- Thưng cau tài có au mé a ? ( Bao giờ anh cả lấy vợ đây ?) - Dì có mì din mí ?

( Anh hai có thuốc lá không? )

- Mé dáo dì ché pay háng xụ nự mu xíu.

(Mẹ bảo chị hai đi chợ mua thịt lợn quay).

Ba ví dụ trên là người em gọi các anh, chị của mình theo thứ bậc. Ngược lại, các anh, chị cũng có thể tự xưng như vậy với các em. Ví dụ :

- Noọng pay xự hử slam có pao din váy.

(Em đi mua chô anh ba bao thuốc nào.)

Ở tiếng Việt, phương ngôn Nam bộ cũng có kiểu xưng hô theo thứ bậc như hai, tư, năm...hôặc gọi theo thứ bậc + tên riêng của người được gọi như Tám Bính, Sáu Thọ, Từ Hải ... ở tiếng Nùng, xưng hô thứ bậc giữa anh, chị và em chỉ có cấu trúc : từ chỉ thứ bậc, tài, dì, luan van thac si su pham,luan van ths giao duc105 of 141.105

slám + danh từ thân tộc có ché=tài ché, dì ché, tài có, slam có.v.v..chứ không có cấu trúc:

từ chỉ thứ bậc + tên riêng = Hai Hùng, út Thuỷ...như của tiếng Việt .

Điều khác biệt nữa la cách xưng hô theo thứ bậc ở người Việt là đặc điểm của một vùng phương ngôn (Nam bộ). Trong khi đó, cách xưng hô theo thứ bậc như trên ở người Nùng là kiểu xưng hô được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người Nùng, trong tiếng Nùng.

Khi thân thiết, thể hiện thái độ tôn trọng với người trên, các em gọi anh, chị theo thứ bậc và tự xưng là noọng:

- Dì có còi lừn hứ noọng pay slon slư há.

(Anh hai trông nhà chô em đi học nhé !) - Ché tài au hử noọng tu pja.

(Chị cả lấy chô em con dao)

Khi bực tức, thể hiện thái độ bất hôà, các em gọi anh, chị mình theo thứ bậc nhưng lại xưng bằng đại từ ngò (tôi)

- Tài có ái pay do tăng pay, ngò mí pay (Anh cả muốn đi thì đi, tôi không đi) - Ngò hít đáy, dì ché mí hít đáy á ?

(Tôi làm được, chị hai không làm được à ?)

Anh, chi cũng có thể tự xưng theo thứ bậc và gọi các em bằng đại từ mưng (mày), ân mật hơn thì gọi là noọng (em).

Các anh, chị người Nùng không gọi các em theo thứ bậc. Đây cũng là điểm khác biệt trong cách xưng hô theo thứ bậc giữa tiếng Việt và tiếng Nùng. Ở tiếng Việt, cách xưng hô theo thứ bậc trong quan hệ vai giữa anh chị và em diễn ra hai chiều : các em gọi anh chị theo thứ bậc như anh Mai, anh Ba, chị Tư, chị Năm ... và đến lượt mình, anh chị cũng gọi các em theo thứ bậc của họ (của các em - ngôi 2) như Tư, Năm hay út hôặc theo cấu trúc : từ chỉ thứ bậc + tên riêng của các em. Ngược lại, ở tiếng Nùng, cách xưng hô theo thứ bậc trong quan hệ vai giữa anh chị và em chỉ diễn ra một chiều: các em gọi anh chị theo thứ bậc của người anh chị đó - ngôi 2.

luan van thac si su pham,luan van ths giao duc106 of 141.106

Nhiều khi, để gọi con, cháu hay em của mình, người Nùng dùng một danh từ chung là slao - chỉ con gái và báo - chỉ con trai. Ví dụ : cúng (ông), má (bà), dé (báu)... gọi cháu gái là lan slao, gọi cháu hai là lan báo.

Pá (bố) , mé (mẹ) gọi con gái là lục slao, gọi con trai là lục háo, (anh), ché (chị) gọi em gái là noọng slao, gọi em trai là noọng báo.

Hai từ slao, báo thường để gọi con, cháu hay em lúc người được gọi (con, cháu, em) còn nhỏ tuổi với sắc thái âu yếm, thân mật.

Như vậy, xưng hô theo thứ bậc giữa anh, chị và em trong gia đình người Nùng có các cặp từ sau :

Xưng Hô

Noọng < —— > có, ché

Noọng < —— > có tài, dì có, ché tài, dì ché Ngõ —— > có tài, dì có... ché tài, dì ché...

Có tài, dì có, ché tài, di ché —— > mưng, noọng, noọng slao, noọng báo.

Xưng hô thuận nghịch (hai chiều) Xưng hô thuận (một chiều)

Đặc điếm trong xưng hô giữa anh, chị và em trong gia đình người Nùng khi khôn lớn đã có xu hướng xưng hô chuẩn mực. Các cấu trúc xưng hô thiếu tính trang nhã đã bắt đầu giảm dần ở giai đoạn này.

Khi có gia đình riêng và con cái, xưng hô giữa anh, chị và em trong gia đình người Nùng có nhiều sự thay đổi.

Những yếu tố sau đây khiến chô xưng hô giữa anh, chị và em ở lứa tuổi này có sắc thái trang nhã, lịch sự và chuẩn mực :

- Các thành viên giao tiếp đã trưởng thành. Họ ý thức đầy đủ về vị thế và ngôi thứ của mình với những người xung quanh.

- Giữa quan hệ vai của họ xuất hiện một vai mới - vai dâu, rể.

- Những ứng xử của các thành viên ở lứa ruổi này cần chuẩn mực hơn bởi họ đã là tấm gương chô một thế hệ mới noi theo - thể hệ con cái.

luan van thac si su pham,luan van ths giao duc107 of 141.107

Khi các thành viên giao tiếp chưa có con (các em cũng như anh chị) thì các em vẫn gọi anh chị mình theo thứ bậc như có tài (anh cả) slám có (anh ba), ché tài (chị cả) dì ché (chị hai). Anh chị gọi các em của mình bằng đại từ mưng (mày) nếu tỏ ý suồng sã, bực bội hay goi tên riêng của các em nếu tỏ ý thân mật, gần gũi.

Xưng hô giữa anh rể, chị dâu và các em bên chồng (hôặc vợ) lại có những từ xưng hô và cách xưng hô riêng biệt - thể hiện đúng mối quan hệ của các nhân vật giao tiếp : quan hệ giữa anh (chị) rể (dâu) với các em . [Xem mục 3.2]

Khi có gia đình riêng, đặc biệt là lúc có con, anh, chị và em người Nùng thường

"mượn" vai của con cái mình để xưng hô - đó là kiểu gọi thay ngôi. Các em sẽ gọi anh mình là (bác trai), gọi chị là (bác gái). Anh, chị gọi các em là xúc (chú), (cô), khạu (cậu), xẳm (thím) v.v... Ví dụ :

Có (anh) : Cú hăn lan dú càu mí ? ( Cô thấy cháu đâu không ?) Noọng (em) : Min ngám dú náy (Nó vừa mới ở đây)

-Các anh, chị cũng có thể gọi em mình theo cấu trúc : danh từ thân tộc + tên riêng của người em (dùng danh từ thân tộc theo cách gọi thay ngôi). Chẳng hạn, người em tên là Báo, người anh có thể nói :

- Xúc Báo mì xèn hử ngò dim slam pác.

(Chú báo có tiền chô tôi vay ba trăm)

Cách gọi này chỉ dùng khi người được gọi (người em) chưa có con.

Cách xưng hô thường thấy giữa anh, chị và em trong gia đình người Nùng ở lứa tuổi này là lối gọi thay ngôi + tên con của người được gọi. Chẳng hạn, tên con đầu lòng của người em là Lăng, anh chị dẽ gọi em là:

- Khạu Láng khai vài chứ mí ? (Cậu Láng bán trâu phải không ? ) - Vằn náy cú Lăng mí pay háng á ?) (Hôm nay co Lăng không đi chợ à ?)

luan van thac si su pham,luan van ths giao duc108 of 141.108

Các em cũng lấy ngôi con mình mà gọi anh, chị theo cách gọi như trên.

Trong quan hệ gia đình, giữa anh chị và em ruột, ai sinh trước là anh, chị ai sinh sau là em. Đây là khế ước mang tính phổ quát đối với nhiều dân tộc. Tuy nhiên, trong quan hê gia tộc (một gia đình lớn), giữa anh chị và các em có mối quan hệ họ hàng với nhau thì tiêu chỉ sinh trước / sau chưa phải là yêu tố duy nhất đo định vị thứ bậc cao / thấp của các thành viên trong loại quan hệ vai này.

Một phần của tài liệu CÁC CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG NÙNG (Trang 105 - 109)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(173 trang)