CHƯƠNG 3: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG DANH TỪ THÂN TỘC TRONG
3.6. XƯNG HÔ GIỮA ÔNG BÀ VÀ CHÁU TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG
3.6.1. Cặp từ xưng hô có tính thuận nghịch giữa ông, bà và cháu trong gia đình người Nùng là cúng, má lan. Đây là kiểu xưng hô tương ứng chính xác - mọi người tự xưng bằng chính vai của mình và gọi đối tượng trong mối quan hệ vai với mình. Ví dụ :
- Cúng cạ lan mí tỉnh á ?
(Ông bảo cháu không nghe à ?) - Lan pay Khau Lừ xáu má mí.
(Cháu đi Lạng Sơn với bà không ?) - Cúng kin láu van mí, lan slư hử.
(Ông ăn rượu nếp không, cháu mua chô)
Tuy nhiên, bêu cạnh kiểu xưng hô tương ứng chính xác như trên xưng hô giữa ông, bà và cháu trong gia đình người Nùng còn có nhiều cách xưng hô tùy theo tùng hôàn cảnh giao tiếp với những sắc thái tình cảm âu yếm, giận dữ, lịch sự hay suồng sã...
3.6.2. Đại từ cau (tao) ngôi thứ nhất, số ít thường được ông bà người Nùng để tự xưng với các cháu. Khi tự xưng là cau, ông, bà sẽ gọi các cháu là mưng (mày). Ví dụ:
- Can mí nả, mưng hít pìn càu dó hít
(Tao không biết, mày làm thế nào thì làm)
Ông, bà cũng có thể xưng cau và gọi cháu ò (thằng), tu (con) , kí ò (những thằng), kí tu (những con ) + từ chỉ xuất nảy (này ). Ví dụ:
- Ò náy mà mí ?
(Thằng này về không ?)
- Tu náy hăn mủ cau dú cau mí ? (Con này thấy mũ tao đâu không - Kí tu náy cạ mái mí tính chử mí.
(Mấy con này nói mãi không nghe phải không ?)
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc115 of 141.115
Như vậy, khi xưng bằng đại từ cau thì người ông, bà có thể gọi cháu là mưng hôặc gọi các cháu theo cấu trúc : ò, tu, kí ờ, kí tu + từ chỉ xuất nảy.
Người ông hôặc người bà cũng có thể gọi tên riêng của cháu hay gọi các cháu theo cấu trúc : tên vai thiên chức lan (cháu) + tên riêng của người cháu. Ví dụ:
- Eng ơi, mé mung thắp mưng thưng lai đá. (Eng là tên cháu) (Eng ơi, mẹ mày tìm lâu lắm rồi đấy)
- Vằn náy lan Eng mí pay au fư á ?
( Hôm nay cháu Eng không đi lấy củi à ?)
Cấu trúc vai thiên chức lan (cháu) + tên riêng người cháu được ông bà người Nùng sử dụng để xưng hô với các cháu vừa biểu thị thái độ thân mật, gần gũi vừa nhằm mục đích hướng phát ngôn vào một đối tượng (cháu) cụ thể trong trường họp có nhiều cháu đang đứng trước ông bà.
Lối gọi thay vai cũng thường thấy trong xưng hô giữa ông, bà và cháu người Nùng : - Có Lợi hử noọng pay váy.
(Anh Lợi chô em đi nào)
- Ché Sao pay slon slư mà dá vớ.
(Chị Sao đi học về rồi này)
Người ông hôặc người bà tự tách vai của mình để khôác vai của người anh, người chị hôặc người em của đối tượng để xưng hô với đối tượng đó. Thường là khi có mặt người em, ông, bà mới gọi anh, chị (của người em) theo lối gọi thay vai như vậy. Đây là lối xưng hô thân thiết.
Ông ba người Nùng thường xưng hô một cách tương ứng chính xác là cúng, má - lan với những người cháu đã trưởng thành hay có nghề nghiệp, địa vị trong xã hội. Kiểu xưng hô này không đơn thuần là cách hô gọi thông thường mà biểu thị thái độ qu1i mếm, trân trọng của ông, bà với các cháu.
Nhiều khi bực tức, giận hờn các cháu, ông, bà người Nùng "tôn" các cháu lén là có (anh), ché (chị ). Cách gọi này khiến chô khôảng cách giữa ông bà và cháu "giãn" ra xa hơn, do đó tình thân hữu giảm xuống mà nổi lên là sự giận hờn, mỉa mai. Ví dụ:
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc116 of 141.116
- Có, ché híu lai đá ! (Anh, chị giỏi lắm rồi !)
3.6.3. Ở người Việt, ông, bà có thể gọi cháu là con. Đó là kiểu xưng hô tạo lập quan hệ. Ông bà tự kéo gần khôảng cách về thế hệ giữa mình và cháu chô thân thiết. Trong những trường hợp như vậy, các cháu cũng tự xưng con trướ ông bà nhưng vẫn gọi ông bà bằng đúng vai của ông bà chứ hầu như không có từ nào khác thay thế. Tuy nhiên, cách xưng con đã tạo nên sụ gần gũi giữa ông bà và cháu. Ngược lại, ở người Nùng, ông bà ít khi gọi cháu là con. Tuy nhiên, trong những tình huống nhất định họ lại gọi cháu là con nhất là khi đứa cháu còn nhỏ. Chẳng hạn, do nghịch ngợm đứa cháu bị tai nạn, lúc đó ông bà có thể nói:
- Hít lăng cúng cháng lục mí tỉnh ! (Sao ông nói con không nghe !)
Ở những câu cảm thân, trong những trường hợp đặc biệt như trên ông bà người Nùng mới gọi cháu là lục (con). Có lẽ vì cháu cũng là một phần máu thịt của mình nên khi bé bị tai nạn người ông, người bà cũng xót xa đau đớn như chính cha mẹ của bé. Lúc này, khôảng cách về thế hệ tuổi tác ... của ông bà như quá xa vời với tình thương yêu bé ông bà tự hạ mình xuống một thế hệ - thế hệ cha mẹ để gọi cháu bằng lục (con). Và có lẽ chỉ gọi như thế mới bày tỏ hết sự trách móc, xen lẫn niềm yêu thương xót xa của ông bà với cháu. Như vậy, tình huống giao tiếp luôn tạo chô các nhân vật tương tác có các cách xưng hô để bày tỏ tình cảm, tâm hồn của mình.
3.6.4. Khi các cháu có con, ông bà người Nùng thường gọi cháu mình kèm theo tên con đầu lòng của người cháu. Đó là cấu trúc xưng hô : tên vai thiên chức pá, mé (bố, mẹ) + tên riêng cua người cháu.
- Pá Lăng pay háng sự din mà hử cúng hả.
(Bố Lăng đi chợ mua thuốc về chô ông nhé)
Trong cách gọi này, ông bà vẫn tự xưng với các cháu bằng vai quan hệ của mình là cúng, má.
3.6.5. Ông bà người Nùng có nhiều cách để trỏ về cháu mình (người cháu ở ngôi thứ ba) với người đối thoại. Nếu người đối thoại là bậc cha, chú của cháu thì ông, bà gọi cháu mình là lan (cháu) :
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc117 of 141.117
- Lan pay hưng dà.
(Cháu đi lâu rồi.)
Nếu người đối thoại lớn tuổi hơn cháu mình tuổi anh, chị thì ông, bà sẽ gọi cháu là noọng (em) hôạt; noọng + tên. Ví dụ.
- Noọng pay hấp nặm đá lan à . (Em đi gánh nước rồi cháu ạ)
- Noọng Hóng dảo ché tắng min cón.
(Em Hóng bảo chị đợi em đã)
Nếu người đối thoại ít tuổi hơn cháu mình thì ông, bà có thể gọi cháu là có, ché (anh, chị) hôặc có, ché+ tên người cháu:
- Có pay nòn dá lan à (Anh đi ngủ rồi em ạ) - Ché mí dù lừn lan à.
(Chị không ở nhà cháu ạ)
- Có Hùng mí chảng lăng xáu lan á ? (Anh Hùng không nói gì với cháu à ?) Ché Hăng cạ au hử lan an náy "
(Chị Hằng bảo đưa chô cháu cái này).
Đây thực chất là cách gọi thay vai : người ông hôặc người bà ồổng hôá vào vai người đối thoại để trỏ chấ mình. Nghĩa lă người đối thoại đâng tuổi chú, bâc ... thì gọi châu lă lan, đáng tuổi anh, chị gọi cháu là noọng và đáng tuổi em thì gọi cháu là có, ché.
Như vậy, xưng hô giữa ông bà và cháu là xưng hô giữa những người khác xa nhau về thế hệ, tuổi tác, sự từng trải ... Vì là bậc trên, ông bà luôn chủ động trong việc lựa chọn từ xưng hô với các cháu. Ông bà có thể sử dụng từ hô (cũng như gọi các cháu trước người đối thoại) với các sắc thái tình cảm thân mật / suồng sã, âu yếm/ giận dữ, xưng hô bằng vai / xưng hô thay vai ... Trong khi đó, vì là ở vai thua kém ông bà về tuổi tác quá xa nên các cháu chỉ có thể xưng hô một cách tôn kính với ông bà. Chính vì thế, trong loại quan hệ vai này những từ ông bà dùng để xưng hô trước các cháu phông phú hơn các từ các cháu có thể luan van thac si su pham,luan van ths giao duc118 of 141.118
dùng để xưng hô với ông bà. Đặc điểm này chính là thể hiện tính một chiều của người có quyền uy (power) trong xưng hô như chúng tôi đã nói ở chương 1.
Kết luận chương 3: Nghiên cứu các cách xưng hô trong gia tộc người Nùng chúng tôi rút ra những nhận xét sau:
Thứ nhất, cũng như ở người Việt, hai nguyên tắc cơ bản được người Nùng sử dụng trong xưng hô là nguyên tắc tự ngã trung tâm và nguyên tắc gọi thay ngôi. Nguyên tắc tự ngã trung tâm là những cách xưng hô tương ứng chính xác (lấy báu thân mình làm mốc để xưng hô) thể hiện đúng mối quan hệ của mình với người đối thoại như pá, mé lục, có, ché noọng, cúng , má , xúc , dé ... lan ... Nguyên tắc gọi thay ngôi là những cách gọi kèm, gọi thay vai của người khác- lấy vai người khác để xưng hô.
Thứ hai, người Nùng tránh gọi tên riêng của người đối thoại. Đặc biệt, người ở vị thế thấp không được phép gọi tên tục của người ở vị thế cao. Nguyên tắc kỵ húy được tuân thủ một cách nghiêm ngặt đối với những người mang vai dâu, rể. Có thể để tránh gọi tên riêng của dâu, rể mà người Nùng đã có những từ ngữ và các cách gọi như gọi kèm, gọi thay vai, gọi theo thứ bậc ... trong loại quan hệ này. Vì thế, số lượng từ xưng hô giữa đâu, rể với các thành viên trong gia tộc người Nùng rất phông phú và đa dạng.
Thứ ba, khi giao tiếp với các thành viên trong gia tộc, người Nùng luôn phân định rạch ròi mối quan hệ giữa mình và người đối thoại. Điều đó trước hết thể hiện qua các từ xưng hô. Các cặp từ xưng hô đối lập giữa con đẻ và con dâu, rể: lục / pỏ tài, mé tài giữa cháu họ và cháu dâu, rể : lan / lan lìu, lan khưi, giữa anh chị ruột (hôặc họ) và anh chị dâu, rể: có, ché / ché fú, tài slảo... giữa bố mẹ đẻ và bố mẹ chồng : pá má / pá mả giữa ông bà nội và ông bà ngoại : cúng, má / cúng ta, má tai v.v... là những bằng chứng, chứng minh chô luận điểm chúng tôi vừa trình bày.
Trong hệ thống danh từ thân tộc của tiếng Việt, một số danh từ thân tộc chỉ có chức năng miêu tả, định danh chứ không thể dùng làm từ xưng hô như các từ dâu, rể, anh rể, chú rể, bác trai, bác gái ... [23, 140] ... Ngược lại, nguyên tắc xưng hô trong gia tộc người Nùng là phải xưng hô dùng mối quan hệ giữa mình với người đối thoại. Do đó, mộ số daanh từ chỉ người không được dùng làm từ xưng hô trong tiếng Việt nhưng trong tiếng Nùng chúng lại được dùng làm từ xưng hô với những nguyên tắc xưng hô rạch ròi và chặt chẽ như các từ lù (dâu), khưi (rể), ché fú (anh rể), cú chôòng (chú rể - chồng cô), dì chôòng (chú rể - chồng dì), dé (bác trai), mú (bác gái) ...
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc119 of 141.119
Hiện tượng trên khiến chô lớp danh từ thân tộc dùng để xưng hô của tiếng Nùng lớn hơn lớp danh từ thân tộc dùng để xưng hô của tiếng Việt.
Thứ tư, trong số các danh từ thân tộc dùng để xưng hô trong tiếng Nùng, các danh từ chỉ vị thế thấp như con, cháu, em còn giữ được những dấu ấn của họ ngôn ngữ Tày - Thái.
So sánh
Tiếng Tày : lục (con), lan (cháu ), noọng (em) Tiếng Nùng : lục (con), lan (cháu), noọng (em)
Tiếng Thái (Việt Nam) Lục (con) lan (cháu), noọng (em)
Nhưng các danh từ chỉ bậc trên như cha mẹ, ông bà, chú bác ... ở mỗi thứ tiếng đã có sự phân hôá dẫn đến sự khác nhau về số lượng cũng như cách ửú dụng. Giải thích hiện tượng này cần phải có những cứ liệu về ngữ âm học lịch sử, về nguồn gốc chủng tộc, gia đình, sự ảnh hưởng của các tôn giáo ... mà chúng tôi chưa thể giải quyết ở đề tài này.
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc120 of 141.120