CHƯƠNG 2: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG ĐẠI TỪ TRONG TIẾNG NÙNG
2.3. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ NGÔI THỨ HAI SỐ ÍT
Đại tù xưng hô ngôi thứ hai, số ít kết quả của sự qui chiếu của người nói tới người được nói với Tiếng Nùng có ba đại từ nhân xưng biểu thị ngôi thứ hai, số ít là mưng, nì, cau.
Gọi người đối thoại bằng đại từ nào phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh giao tiếp, vào tuổi tác, giới tính ... của người được gọi. Bảng 4 sau đây sẽ trình bày những nhân tố chi phối cách dùng đại từ ngôi thứ hai số ít trong tiếng Nùng.
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc69 of 141.69
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc70 of 141.70
2.3.1. ĐẠI TỪ MƯNG
Xưng và hô luôn có tính tương liên chặt chẽ. Xưng như thế nào thì phải có từ để gọi tương ứng. Trong tiếng Nùng, khi ngôi thứ nhất tự xưng là cau thì sẽ gọi ngôi thứ nhất là mưng. Có hai loại quan hệ vai dùng đại từ mưng để trỏ người đối thoại.
Thứ nhất, trong quan hệ phi đối xứng, người ở vị thế cao dùng mưngđể trỏ người ở vị thế thấp hơn mình. Chẳng hạn như cha mẹ, ông bà, chú bác...gọi con cháu (phạm vi gia đình) . Ngoài xã hội, những người cao tuổi dùng mưngđể gọi người ít tuổi. Do đó, phạm vi sử dụng của đại từ mưngcó tính lưỡng vi - dùng trong gia đình và ngoài xã hội. Trong quan hệ vai giữa người trên và kẻ dưới, tính cặp đôi của đại từ cau - mưng là một chiều. Nghĩa là vai trên, người có quyền uy (Power ) tự xưng là cau và gọi người đối thoại là mưng. Ngược lại, người có vị thế thấp không thể dùng cặp đại từ này xưng hô với người có vị thế cao hơn mình. Lúc này, tùy vào mối quan hệ giữa mình và người được gọi mà người ở vị thế thấp có thể dùng đại từ lại hay các danh từ khác để xưng hô chô thích hợp. Người ở vị thế cao dùng mưng để trỏ người ở vị thế thấp thường mang sắc thái suồng sã. Vì thế, khi người đối thoại chưa có con (còn trẻ) người lớn tuổi mới dùng mưng để gọi họ. Ví dụ:
- Pá mưng dú lùn mí ? (Bố mày ở nhà không ?) - Mưng pay thắp vài váy.
(Mày đi tìm trâu đi.)
Trong ngữ cảnh giao tiếp không chính thức, không trang trọng (informal), người ở vị thế cao mới gọi người ở vị thế thấp là mưng. Trong giao tiếp ngoài xã hội, để giữ phép lịch sự, với những người ít tuổi nhưng chưa quen biết, người cao tuổi không dùng mưng mà dùng các danh từ lan (cháu), noọng (em ) để gọi.
Thứ hai, trong quan hệ đối xứng, những người ở vị thế ngang bằng như bạn bè, vợ chồng dùng mưng để trỏ người đối thoại với sắc thái thân mật, gần gũi. Ở loại quan hệ vai ngang bằng, tính cặp đôi của đại từ cau - mưng là hai chiều. Nghĩa là người nói và người nghe cùng luân phiên xưng và hô cau - mưng với nhau.
Có thể nói, cặp đại từ cau – mưng trong tiếng Nùng có tính khái quát cao. Cau – mưng thường được dùng trong ngữ cảnh giao tiếp informal nhưng nhiều khi chúng cũng được những người có vị thế ngang bằng sử dụng để xưng hô trong ngữ cảnh giao tiếp formal như luan van thac si su pham,luan van ths giao duc71 of 141.71
trong Sli, trong những lời tỏ tình của nam nữ. Dĩ nhiên trong trường họp này cuộc thoại đã diễn biến theo chiều hướng xấu nên nhân vật hội thoại mới xưng cau – mưng một cách suồng sả:
"Mưng vàm cau khỏi tảng sai mòi Mưng vàm cau khỏi mì lăng khỏ Cảm và xoi pèng pay mén đoi"
Tạm địch :
"Mày ca tao hát sự vui chơi Mày ca tao hát gì mà khó Bắt mày leo đồi mới khó thôi"
[96, 206]
Đối chiếu dại từ mưng trong tiếng Nùng với đại từ mày trong tiếng Việt, chúng ta thấy:
Mưng và mày cùng chỉ nhưng người có vị thế thấp hơn hôặc ngang bằng và cả hai đại từ đều được sử dụng rộng rãi trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Mưng trong tiếng Nùng được sử dụng trong nhiều loại quan hệ vai như bạn bè, anh, chị và em, vợ chồng ... Ngược lại, vợ chồng người Việt (xét về chuẩn mực) không thể dùng đại từ mày để gọi nhau.
Đại từ mày của tiếng Việt chỉ được dùng trong ngữ cảnh giao tiếp không qui thức (informal). Ngược lại, dùng đại từ mưng của tiếng Nùng được dùng cả hai ngữ cảnh giao tiếp qui thức và bất qui thức. Dĩ nhiên, ở mỗi ngữ cảnh giao tiếp khác nhau, đại từ mưng sẽ có sắc thái biểu cảm khác nhau.
2.1.2. ĐẠI TỪ NÌ.
Nì là đại từ nhân xưng gốc Hán, nằm trong mối tương liên với đại từ ngò ở ngôi thứ nhất. đại từ nì được những người có vị thế ngang bằng như bạn bè, vợ chồng, anh chị và em (khi còn trẻ)...dùng để xưng hô với nhau. Yếu tố tuổi tác cũng chi phối tới việc dùng đại từ ngò – nì trong xưng hô giữa vợ và chồng ở người Nùng. Đại từ ngò – nì thường chỉ được những cặp vợ chồng trẻ, chưa có con sử dụng.
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc72 of 141.72
Quan sát bảng 4, chúng ta thấy, phạm vi sử dụng của đại từ nì là cả trong gia đình (giữa vợ chồng, anh chị và em) và ngoài xã hội (bạn bè). Đại từ nì cũng được sử dụng rộng rãi trong cả hai hôàn cảnh giao tiếp informal và formal với sắc thái thân mật, gần gũi. Nói cách khác, tính qui thức và bất qui thức của hôàn cảnh giao tiếp hầu như ít tác động tới cách dùng đại từ nì.
Với sắc thái lịch sự, thân mật nên đại từ nì cũng thường xuyên được sử dụng trong dân ca, sli của người Nùng. Ví dụ :
"Cằm kin xái sló mà phúng noọng Slí ngò lao tú kháo thung nì"
(Tối nay thật may mắn gặp em đển Chắc hẳn đời anh nhớ tới em) [96, 221].
Đại từ nì có thể kết hợp với danh từ chỉ quan hệ thân tộc để nhấn mạnh người được gọi. Ví dụ:
- "Dòm hăn fạ ái slủng fi
Noọng nảy mì vàm slăng có nì"
(Thôáng trông trời sắp sáng rồi
Em muốn nhắn anh một đôi lời ) [134, 138]
- Ít mà ti quỉn pài sli nảy Dì mà ti quỉn có làng nì ( Một là bài sli em cuộn lại
Hai là ta cuộn lấy anh thôi) [134, 83] .
Quan sát cách sử dụng đại từ nì trong xưng hô hàng ngày cũng như trong văn học (dân ca) của người Nùng, chúng tôi chô rằng, đại từ nì vừa có nghĩa là cậu, bạn vừa có nghĩa là anh (giống đực), là em (giống cá ). Trong phạm vi những người có vị thế ngang bằng, chức năng chiếu vật của đại từ nì trong tiếng Nùng gần như chức năng chiếu vật của đại từ You trong tiếng Anh. Trong nhiều trường hợp đại từ nì mang sắc thái suồng sã, mất lịch sự. Đó là khi người nói tức giận. Lúc này, đại từ nì có sắc thái gần với đại từ mày của tiếng Việt. Ví dụ :
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc73 of 141.73
- Mé nì, chảng mai mí pay chử mí ? (Mẹ mày, bảo mai không đi phải không ?) 2.3.3. ĐẠI TỪ CAU
Nếu như đại từ cau ngôi thứ nhất, số ít có thể chuyển dịch tương đương với đại từ tao ngôi thứ nhất, số ít của tiếng Việt thì ở ngôi thứ hai, số ít đại từ cau tiếng Nùng không có tương đương trong tiếng Việt. đại từ cau ngôi thứ hai dùng để trỏ những người lớn tuổi đáng kính trọng. Sự khác biệt giữa đại từ cau ngôi thứ nhất và đại từ cau ngôi thứ hai là ở phạm vi sử dụng, vai sử dụng và sắc thái biểu cảm.
Xét phạm vi sử dụng nên ở ngôi thứ nhất đại từ cau có tính lưỡng vi (vừa dùng trong gia đình vừa dùng ngoài xã hội) thì ở ngôi thứ hai đại từ cau chỉ được dùng trong giao tiếp ngoài xã hội. Bởi lẽ người Nùng luôn có xu hướng xưng hô đúng chức vị với những thành viên trong gia tộc. Để chỉ nhưng người có tuổi trong gia tộc, người Nùng luôn dùng những danh từ thân tộc như cúng (ông), má (bà), de (báu trai), mú (bác gái), xúc (chú) khám (mợ) ... để biểu thị đúng mối quan hệ giữa người xưng và người gọi - đây là quan hệ thân tộc. Do vậy, tuy đại từ cau ngôi thứ hai dùng để gọi người lớn tuổi với sắc thái kính trọng nhưng không biểu thị được mối quan hệ thân tộc nên không được dùng để xưng hô trong gia tộc.
Xét về vai sử dụng, đại từ cau ngôi thứ hai chỉ được những người ít mối dùng để gọi những người cao tuổi. Nói cách khác, đại từ cau qui chiếu tới những người cao tuổi.
Xét về sắc thái biểu cảm, dù ở ngữ cảnh giao tiếp qui thức hay không qui thức, đại từ cau biểu thị thái độ kính trọng của người ít tuổi với người cao tuổi.
Đại từ cau ngôi thứ hai có hình thức giống đại từ cau ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, đại từ cau ở hai ngôi lại có nhiều nét khác nhau. Nhận xét về sự khác biệt giữa đại từ cau ngôi một va cau ngôi hai, Mông Kí Slay viết ".. Có thể từ xa xưa cau ở hai ngôi này vốn cùng một gốc, đều mang sắc thái lịch sự. Nhưng trong qúa trình phát triển, ngôi thứ nhất được bổ sung các đại từ chỉ sắc thái lịch sự (lại, khói lại) mà ngôi hai không có đại từ chỉ lịch sự tương ứng, do vậy cau ở ngôi thứ hai vẫn giữ đậm nét sắc thái lịch sự chô tới nay. Trong khi đó, cau ở ngôi thứ nhất không còn giữ được nguyên vẹn nét lịch sự ban đầu nữa” [93, 85].
Khi đã gọi người đối thoại là cau thì người gọi thường tự xưng là lại. Ví dụ:
luan van thac si su pham,luan van ths giao duc74 of 141.74
- lại cháng cau * tính đáy mí ? (Cháu nói ông nghe được không ?) - Can * đáy kỉ lai pi đá ?
(Bà được bao nhiêu tuổi rồi ? )
* (Từ dịch không có nghĩa tương đương)
Chính nhờ giá trị biểu cảm của đại từ lại ngôi ngôi thứ nhất và đại từ cau ngôi thứ hai nên cặp đại từ xưng hô lại - cau được dùng như là cặp từ xưng lịch sự nhất giữa người ít tuổi và người cao tuổi trong quan hệ xã hội của người Nùng. Tính cặp đôi của hai đại từ lại và cau là một chiều. Nghĩa là người ít tuổi xưng là lại và gọi người cao tuổi là cau. Người cao tuổi tự xưng là cau (ngôi thứ nhất) hay xưng bằng danh từ thân tộc như cúng (ông), má (bà) , dé (bác), xúc (chú) ... và gọi người ít tuổi hơn mình là lan (cháu), hay bằng đại từ mưng ( mày ) ngôi thứ hai, số ít ...
Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai luôn nằm trong thế tương liên với các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất như cau (ngôi 1) - mưng (ngôi 2), ngò (ngôi 1) - nì (ngôi 2), lại (ngôi 1) - cau (ngôi 2). Các cặp đại từ này được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp ngoài xã hội cũng như trong gia đình của người Nùng. Chúng được dùng ở tất cả các loại quan hệ vai như vợ - chồng, cha, mẹ - con , anh, chị - em, bạn - bạn ... với tất cả các sắc thái tình cảm như lịch sự, thân mật, gần gũi hôặc suồng sã, xa cách.