Những hiểm họa về môi trường do nạn phá rừng

Một phần của tài liệu BÁO CÁO THỰC TẬP-DU LỊCH SINH THÁI (Trang 50 - 53)

tăng từ 200-300% ở Đông Đứùc. Đặc biệt, ở Liên Xô (cũ), các dãy rừng còn nâng cao chất lượng mùa màng, làm tăng thành phần protit ở lúa mì lên 14,3%, trọng lượng hạt lúa cũng tăng lên. Hiệu quả của các dãy rừng chống xói mòn ở vùng cao cũng rất rõ ràng: lúa mì mùa đông tăng 30%, củ cải đường tăng 9%, cỏ cho gia súc tăng 20% (N. P. Anuchin, 1978).

Ở Việt Nam, những dãy rừng phi lao ở huyện Lí Nhân (Nam Hà) bảo vệ đồng ruộng, chống gió mùa Đông Bắc giá rét, gió Tây Nam khô nóng và làm tăng năng suất lúa từ 10-15%.

Ngoài ra, rừng còn có một số tác dụng như ngăn cản ảnh hưởng của các chất phóng xạ, giảm tiếng ồn, giảm ô nhiễm không khí, cũng như màu xanh của cây rừng cùng với cảnh quan rừng kết hợp với các yếu tố sinh học sẽ tạo ra một điều kiện DLST hấp dẫn, đem lại sự thanh thản cho tâm sinh lí sau những giờ làm việc căng thẳng…

5.1.4 Những hiểm họa về môi trường do nạn phá rừng

5.1.4.1 Thoái hóa đất

Khi con người bắt đầu tấn công một cách có quy mô vào các khu rừng thì chỉ một thời gian ngắn sau đó đất đai đã bị xói mòn và xuống cấp trầm trọng, lớp đất màu mỡ bị cuốn trôi đi ngay sau mùa mưa. Kế đó, người ta bắt đầu gia tăng liều lượng bón phân một cách tùy tiện. Kiểu khai thác này đã làm gia tăng tốc độ xói mòn, giảm khả năng giữ nước và gia tăng tình trạng hoang hóa đất đai.

Những cuộc di chuyển dân cư không có kế hoạch và nằm ngoài sự kiểm soát cũng đã phá hoại hàng triệu ha rừng nguyên sinh, rừng già… và đã gây ra sự trọc hóa trên những vùng diện tích đất rừng.

Trong khai thác rừng, người ta chú trọng đến sản phẩm gỗ hơn là cách sử dụng đất đai và tài nguyên. Cây gỗ dưới mắt nhà lâm nghiệp là những “lóng gỗ” thương mại, còn đối với người canh tác nương rẫy thì nó chỉ là nguyên liệu để đốt lấy tro làm phân bón cho đất, làm củi, làm nhà ở… vì vậy, họ không sợ tốn kém gì cả, cứ tự do chặt phá rừng. Lửa rừng đối với nhà lâm nghiệp là kẻ thù của rừng, nhưng đối với nhà nông nghiệp thì nó là một “công cụ” hữu hiệu để khai hoang, lấy đất trồng và lấy tro bón cho đất. Hậu quả lâu dài cho các vấn đề trên thật là khủng khiếp, số liệu của chúng tôi (Lê Huy Bá, 1995) đã chứng minh được rằng diện tích đất rừng bị laterite hóa ở miền Đông Nam Bộ hiện nay đã lên tới 15%.

Sự tàn phá rừng càng lan rộng và gia tăng, đã biến rừng từ một hệ sinh thái tự nhiên thành một hệ sinh thái nhân tạo và thương mại, phục vụ cho mục đích lợi tức và các nhu cầu lương thực cơ bản của con người. Vì vậy, phá rừng là một trong những nguyên nhân gây ra sự thoái hóa và xuống cấp đất đai nhanh nhất.

5.1.4.2 Phá hủy thảm thực vật rừng

Các vấn đề về rừng liên quan đến việc sử dụng thảm thực vật rừng không thể chỉ được phân tích một cách đơn giản về hai mặt: khai thác rừng và trồng rừng. Quá trình khai thác rừng hay trồng lại rừng thuộc về sách lược chung của vùng. Xét về mặt “môi sinh” thì cần thiết phải cân nhắc

là nên làm gì và làm như thế nào, đó là những vấn đề chủ yếu do các nhà lâm nghiệp quyết định.

Rừng và khí hậu có quan hệ mật thiết với nhau. Rừng là một trong những yếu tố quyết định lên chất lượng của môi trường; “không khí ô nhiễm chứa hàm lượng là 0,1 mg SO2/m3 sẽ được thanh lọc hoàn toàn khi băng qua một khu rừng chỉ khoảng 1 ha” (M. Ragon, 1971; Les erreurs monumentales). Thế nhưng, sự khai thác trắng diện tích rừng rất lớn đã làm giảm khả năng trên. Sự tái sinh của rừng cũng như nguồn tài nguyên di truyền của nó cũng bị ảnh hưởng. Những cây còn sót lại thì đa số là kém về chất lượng và kém giá trị. Do đó, chất lượng sinh học của rừng đã bị suy biến một cách trầm trọng.

5.1.4.3 Suy thoái tài nguyên rừng

Suy thoái về chất lượng thương mại: do chặt phá rừng lấy gỗ để xây dựng và khai thác các sản phẩm lâm nghiệp khác nên chất lượng gỗ thương mại đã bị suy giảm nghiêm trọng, thậm chí một số loài hầu như đã biến mất (sao, cẩm lai, baèng laêng, caêm xe…).

Suy thoái nặng nề về số lượng: do áp lực của sự gia tăng dân số cho nên ở nhiều nơi gỗ đã bị lạm dụng quá mức, đưa đến tình trạng cây gỗ bị tiêu diệt hoàn toàn. Cháy rừng, trong những năm gần đây mặc dù có giảm phần nào, nhưng các thiệt hại do nó gây ra đối với tài nguyên rừng cũng không nhỏ.

5.1.4.4 Gia tăng tác hại do hiệu ứng nhà kính (green house effects)

Hiệu ứng nhà kính được xem là quy luật của tự nhiên để duy trì độ ấm của trái đất. Nếu không có nó thì nhiệt độ của trái đất sẽ lạnh giá (-80C), băng hà sẽ phủ đầy bề mặt lục địa, giống như thời kỳ “Băng hà Đệ Tưù” đã từng xảy ra trong lịch sử của nhân loại. Thế nhưng, trong vòng 30 năm trở lại đây các khí gây hiệu ứng nhà kính đã gia tăng đến chóng mặt (gấp ba lần); từ đó, nhiệt độ của trái đất đã không ngừng taêng leân.

Việc gia tăng các khí gây hiệu ứng nhà kính trước hết là do sự đóng góp của ngành năng lượng. Chẳng hạn như:

ƒ 80% khí CO2 tỏa ra do việc đốt nhiên liệu hóa thạch, còn lại là tàn dư của sự phá rừng và các hoạt động khác. (Về vai trò của một số khí gây hiệu ứng điển hình như sau, trong đó:

CO2 : Đóng góp 50%

CH4 : Đóng góp 13%

CFC-11 : Đóng góp 5%

CFC-12 : Đóng góp 12%

N2O : Đóng góp 5%

O3 : Đóng góp 7%

Còn lại khoảng 8% là hơi nước và các khí khác).

ƒ 35% khớ CH4 tỏa ra cú thếồ quy về năng lượng (20% từ việc đốt sinh khối, 15% từ việc khai thác khí thiên nhiên).

Hàng năm, con người đã thải vào khí quyển 550 triệu tấn CH4.

ƒ Khoảng 50% khí NO có liên quan đến việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

Cũng cần nhấn mạnh rằng hậu quả của việc gia tăng các khí nhà kính là do sự tàn phá rừng. Như chúng ta đã biết, thực vật có khả năng hấp thụ trực tiếp năng lượng của cỏc dao động điện từ. Nhờ năng lượng này, chỳng cú thếồ chuyển hóa các chất vô cơ đặc biệt là nước và CO2 thành các chất hữu cơ. Nói chung, vai trò của thực vật vô cùng to lớn trong việc hấp thụ CO2 và thải oxy trong tự nhiên để duy trì cán cân CO2/O2,bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của thế giới động - thực vật trên trái đất. Thế nhưng, con người không ngừng tàn phá rừng, làm cho khả năng hấp thụ khí CO2 bị giảm. Do đó, nồng độ CO2 trong khí quyển gia tăng liên tục trong thời gian qua.

Ngoài ra, mất rừng còn gây ra một số vấn đề khác cho môi trường sinh thái: làm giảm tính đa dạng sinh học, dịch chuyển tâm mưa, làm giảm giá trị mỹ quan cho vấn đề du lòch xanh…

5.1.4.5 Làm giảm độ ẩm đất và mạch nước ngầm tuùt saõu xuoỏng

Mất thảm phủ rừng kéo theo lượng nước thấm vào lòng đất bị giảm sút nghiêm trọng, lượng bốc hơi nước vượt quá nhiều lần so với sự thấm nước. Mạch nước ngầm tụt xuống (có nơi đến 20m như trường hợp ở Đắk Lắk). Hậu quả là mùa khô trở nên khốc liệt hơn, bằng chứng là ở Đắc Lắc, hàng trăm hecta cà phê mới trồng đã bị cháy trụi trong thập niên 90 do hậu quả của việc phá rừng. Thêm vào đó, khi mới khai hoang, nhà nhà đào giếng, người người đào giếng dẫn tới

mạch nước ngầm càng tụt xuống sâu hơn, càng gây ra hậu quả nặng nề hơn.

5.1.4.6 Gây ra nạn lũ quét

Những năm gần đây, nhất là năm 1998 và 1999 vừa qua có hàng chục cơn lũ quét xảy ra ở cả miền Bắc, miền Trung, miền Đông Nam Bộ và Tây nguyên Việt Nam cũng là do sự mất rừng đầu nguồn gây nên. Lũ lụt và xói mòn là hai yếu tố có quan hệ nhân quả: lũ lụt làm gia tăng cường độ xói mòn, vật liệu bị xói mòn lại bồi cạn lòng sông, làm cho lũ lụt càng trở nên nghiêm trọng hơn.

5.1.4.7 Làm cho khí hậu bất thường

Kết hợp với Elnino và Lanina, mất rừng đã tạo ra biên độ nhiệt lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới thời tiết và khí hậu. Theo tính toán của chúng tôi (Lê Huy Bá và ctv), những vùng đất bị mất rừng có biên độ nhiệt cao hơn những nơi có rừng từ 3-40C. Lượng mưa hàng năm cũng có chiều hướng giảm từ 200-250 mm so với đối chứng. Bên cạnh đó, những cơn bão thường xuyên xảy ra ở những vùng mất rừng, thậm chí ngay cả những vùng thung lũng.

Như vậy, rừng là guồng máy điều hòa sinh cảnh và sinh thái.

Và cũng chính điều này, trong nghiên cứu về DLST nếu không quan tâm tới yếu tố rừng thì là một thiếu sót nghiêm trọng.

Một phần của tài liệu BÁO CÁO THỰC TẬP-DU LỊCH SINH THÁI (Trang 50 - 53)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(285 trang)