Quan hệ giữa DLST và phát triển

Một phần của tài liệu BÁO CÁO THỰC TẬP-DU LỊCH SINH THÁI (Trang 84 - 92)

SỬ DỤNG HỢP LÍ VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN TRONG

8.2.3 Quan hệ giữa DLST và phát triển

a. Quan hệ giữa đa dạng sinh học và DLST

Như đã trình bày ở các chương trước, DLST lấy tự nhiên làm nền tảng cho sự phát triển. Chính vì vậy, sự phong phú của thế giới tự nhiên quyết định lên giá trị của các sản phẩm DLST. Như vậy, việc bảo tồn đa dạng sinh học không chỉ là mục tiêu của riêng ngành DLST mà là mục tiêu chung của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều quốc gia nhằm tìm kiếm sự hòa thuận chung của con người và động vật với môi trường sinh thái.

Qua đó ta thấy, đa dạmh sinh học (ĐDSH) là một tài nguyên của DLST, không thể tách rời đa dạng sinh học ra khỏi DLST, là một hợp phần trong nhiều thành phần tạo nên DLST. Vậy ĐDSH là gì? “ĐDSH là tổng hợp toàn bộ các gen, các loài và các hệ sinh thái. Đó là sự biến đổi liên tục theo tiến hoá để tạo ra các loài mới trong điều kiện sinh thái mới khi những loài khác biến đi”.

Xét về tổng thể ĐDSH không chỉ tạo nên cuộc sống ngày nay mà nó còn có tầm quan trọng đặc biệt trong việc duy trì và phát triển cuộc sống này. Nhìn từ khía cạnh DLST thì ĐDSH là nhân tố không thể thiếu để từ đó xây dựng các chương trình DLST. Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được DLST là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao.

ĐDSH bao gồm: đa dạng di truyền, đa dạng loài và đa dạng sinh thái. Chính sự đa dạng về gen (đa dạng di truyền), đa dạng loài góp phần tạo nên đa dạng về hệ sinh thái, bởi ngoài yếu tố vô sinh như đất, nước, địa hình, khí hậu… hệ sinh thái còn bao gồm các quần xã sinh vật. Nhiều quần thể tập hợp thành quần xã, như vậy theo cơ chế tổ hợp của một lượng hàng triệu cá thể của các quần thể ta sẽ có rất nhiều các quần xã sinh vật. Mỗi quần xã thích nghi với điều kiện sống ở một số nơi nào đó trên hành tinh. Trong sự tồn tại và phát triển, thế giới sống có quan hệ mật thiết với điều kiện tự nhiên. Mối quan hệ này là hai chiều, sự đa dạng về sinh vật được nhân lên khi gắn kết với sự đa dạng về sinh cảnh.

Đó chính là nguyên nhân giải thích tại sao trên hành tinh chúng ta có vô vàn các hệ sinh thái khác nhau cùng tồn tại.

Nếu không có ĐDSH thì không có DLST vì du khách thưởng thức những sự phong phú các loại hình sinh thái (đất, nước, cây, con…), không ai đi DLST nơi sa mạc, nơi không có cây mọc và thú vật nào sinh sống. Điều đó chứng tỏ mối liên kết không thể tách rời giữa ĐDSH và DLST, muốn phát triển DLST ở một nơi nào đó thì bắt buộc nơi đó phải có sự phong phuự veà ẹDSH.

Đứng ở góc độ DLST, thì ĐDSH bao gồm cả sự đa dạng về văn hóa – là sự thể hiện của con người, một thành viên của thế giới sinh vật, đồng thời là nhân tố quan trọng thuộc các hệ sinh thái. Trong đó văn hóa bản địa là một bộ phận đặc biệt của đa dạng văn hóa, góp phần tạo nên nền văn hóa nói chung của một dân tộc, một quốc gia. Văn hóa bản địa chính là các giá trị về vật chất tinh thần được hình thành

trong quá trình phát triển của một cộng đồng dân cư, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa thế giới tự nhiên và con người trong không gian của một hệ sinh thái tự nhiên cụ thể.

Cả bốn thành phần trên của ĐDSH đều tham gia vào việc xây dựng hình thành hoạt động DLST. Mặt khác DLST cũng tác động ngược lại đối với ĐDSH, nó góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị ĐDSH nhằm phát triển bền vững trong tửụng lai.

ĐDSH với các đối tượng tham gia hoạt động DLST Các đối tượng tham gia xây dựng hoạt động du lịch sinh thái bao gồm: các nhà hoạch định chính sách, các nhà điều hành du lịch, các nhà quản lí lãnh thổ, hướng dẫn viên du lịch.

Họ là những người phải quan tâm đến tất cả các thành phần của ĐDSH – cơ sở để xây dựng một mô hình DLST bền vững.

Các nhà hoạch định chính sách: Đây là những người làm công tác quy hoạch, xây dựng các chính sách phát triển DLST trong các viện nghiên cứu, cơ quan nhà nước. Họ có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu tìm hiểu tính ĐDSH cho một khu vực, họ là những người phát hiện, điều tra ra những tính chất đặc trưng về ĐDSH của khu vực (đặc trưng về gen, loài, sinh thái) để từ đó xây dựng một mô hình du lịch bền vững cho khu vực đó.

Các nhà quản lí lãnh thổ: Đây là những người có vai trò quyết định đối với sự bảo tồn và phát triển của một khu DLST. Trong đó, các yếu tố đa dạng về gen, loài, sinh thái sẽ được họ trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát thông qua việc

kiểm soát sự biến đổi của hệ sinh thái và môi trường tự nhiên trong phạm vi được quản lý.

Các nhà điều hành du lịch: Đây là những người tổ chức, điều hành cụ thể hoạt động du lịch sinh thái, họ trực tiếp xác định các phương thức tiến hành hoạt động, lựa chọn địa điểm tổ chức DLST, xây dựng các chương trình du lịch phù hợp với các dịch vụ có thể cung ứng trong điều kiện địa phương. Vì vậy họ phải là người am hiểu về môi trường sinh thái khu vực. Một hệ sinh thái đặc trưng về địa hình, chế độ thuỷ văn, quần thể sinh vật đặc thù… sẽ là nhân tố quyết định để các nhà điều hành du lịch thực hiện trách nhiệm của mình.

Hướng dẫn viên du lịch: Đây là những người có kiến thức, nắm được đầy đủ thông tin về môi trường tự nhiên, các đặc điểm các loại hình sinh thái, tính đa dạng và độ phong phú của loài, tính thích nghi và tính đặc trưng của hệ sinh thái, văn hoá cộng đồng địa phương để giới thiệu một cách sinh động nhất, đầy đủ nhất với du khách về những vấn đề đã thúc giục họ tham gia tuyến DLST của khu vực.

Khách du lịch:

Khách du lịch là đối tượng chính của DLST, chính những nét đặc trưng về ĐDSH của khu vực đã thu hút họ tham gia hoạt động du lịch. Tuy nhiên cần phân biệt giữa khách du lịch và khách DLST, hiện nay hai khái niệm này vẫn chưa được phân biệt rạch ròi. Ở các nước đang phát triển thì khái niệm DLST vẫn còn manh nha, nhiều khi bị cho là một.

Người ta chia ra khách du lịch thành các đối tượng chính sau:

o Khách du lịch tình cờ, ngẫu nhiên hoặc những người muốn tham gia vào chuyến du lịch lạ thường đến với thiên nhiên. Đối với những đối tượng này thì những nét đặc trưng, độc đáo về quần xã sinh vật, văn hoá bản địa của khu du lịch sẽ, gây ấn tượng cho họ. Tuy nhiên, đây cũng là đối tượng nguy hiểm nhất (trong ba đối tượng tham gia hoạt động du lịch sinh thái) đối với sự ĐDSH. Do tình cờ ngẫu nhiên đến với khu du lịch nên những điều khác thường, đặc biệt nơi đây thường kớch thớch sự tũ mũ của họ,ù vỡ vậy họ cú thể cú những hành động gây hại hoặc phá huỷ hệ sinh thái của khu vực như hái hoa, bẻ cành…

o Khách du lịch có lòng say mê thiên nhiên, họ luôn muốn có được những chuyến đi đến những nơi có hệ sinh thái đặc trưng như như các vườn quốc gia, khu bảo tồn (nơi lưu giữ, duy trì và phát triển sự đa dạng về gen, loài của một vùng đặc trưng). Họ thường là những người có tầm hiểu biết, có trình độ, họ ý thức được tầm quan trọng và giá trị của tự nhiên và giá trị nhân văn. Họ thực sự là đối tượng của DLST.

o Đối tượng thứ ba là các nhà khoa học, các thành viên của các dự án bảo tồn…. Đây là những người thực hiện sứ mệnh bảo tồn ĐDSH của nhân loại. Họ tham gia nghiên cứu, tìm hiểu và khám phá những nét độc đáo, đặc trưng về đa dạng gen, loài và đa dạng hệ sinh thái. Đó là các vấn đề chính mà họ quan tâm, việc tham gia vào hoạt động DLST của họ mang ý nghĩa công việc nhiều hơn là nghỉ ngơi, giải trí.

Sự tuyệt chủng và DLST

Hiện nay con người đã biết và mô tả được 1,7 triệu loài trong số 30 triệu loài dự đoán có được trên hành tinh. Tuy nhiên, có khoảng 5-10% số loài trên thế giới sẽ bị tiêu diệt vào những năm 1990-2020 và đến năm 2050 con số này có thể lên đến 25%.

Sự tuyệt chủng của một loài ảnh hưởng khá lớn đến ĐDSH, nó làm mất đi nguồn gen đặc trưng, giảm sự đa dạng về chủng loại trong hệ sinh thái điển hình. Chỉ khi sự tuyệt chủng của loài ưu thế trong hệ sinh thái mới thực sự gây ảnh hưởng lớn tới hệ sinh thái dẫn đến sự hình thành một diễn thế sinh thái mới, từ đó hình thành và phát triển một hệ sinh thái khác.

Nguyên nhân chính gây ra sự tuyệt chủng hay sự đe dọa của giống loài là:

o Sự khai thác quà đà.

o Những ảnh hưởng của thú ăn thịt, những kẻ cạnh tranh hay bệnh tật.

o Sự phá huỷ biến đổi nơi sinh sống của giống loài.

Vì những ảnh hưởng nhân tạo này, tỉ lệ tuyệt chủng và con số chủng loại bị đe doạ tuyệt chủng đã gia tăng nhanh trong vài thế kỷ qua. Hiện tượng này được chứng minh rõ nhất bởi tài liệu đối với động vật có xương sống. Qua bốn thế kỷ gần đây, trên toàn cầu có toàn bộ hơn 700 loài tuyệt chủng được biết đến, bao gồm 100 loài động vật có vú và 160 loài chim, tất cả đều bởi ảnh hưởng nhân tạo.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, con người đã có nhiều những bước tiến trong hoạt động duy trì và bảo vệ các giống loài có nguy cơ tuyệt chủng. Một trong những cách tiếp cận bền vững, bảo vệ các giống loài ngăn chặn sự tuyệt chủng là xây dựng các khu BTTN, vườn quốc gia… để hình thành và phát triển loại hình DLST trên thế giới theo đúng nghĩa của nó. Đó chính là hình thức bảo vệ sự ĐDSH một cách hiệu quả nhaát.

Hiện nay, phát triển du lịch đang diễn ra ở khắp mọi nơi trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển có nguồn tài nguyên thiên nhiên trù phú như các nước thuộc châu Phi, châu Á. Ở các nước này việc phát triển du lịch chưa theo đúng hướng của DLST nên hoạt động này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như sự ĐDSH của địa phương. Điển hình là việc quy hoạch, xây dựng mặt bằng cho hoạt động du lịch làm mất đi nơi ở của các loài, hành vi thiếu ý thức của du khách làm huỷ hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên,…

DLST là một hình thức hoạt động bền vững, nó là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường. Vì vậy, một khi DLST được thực hiện và phát triển đúng hướng sẽ làm giảm nhẹ hoặc loại bỏ các tác động tiêu cực đối với ĐDSH. DLST sẽ tạo cơ hội có công ăn việc làm và thu nhập cho các cộng đồng địa phương, gia tăng ý thức bảo vệ môi trường cho họ và từ đó làm giảm nhẹ sức ép của con người lên môi trường sinh thái.

Ngoài ra, với tính chất giáo dục của mình, DLST sẽ không những đem lại cho du khách những hiểu biết về môi

trường tự nhiên mà còn tạo cho họ ý thức về việc bảo vệ thiên nhiên nói chung và đa dạng sinh học nói riêng. Một trong những cách duy trì, bảo vệ các giống loài và ngăn trặn sự tuyệt chủng là phát triển mở rộng hình thức DLST.

b. DLST với phát triển cộng đồng Cộng đồng bao gồm bốn yếu tố:

- Tương quan cá nhân mật thiết với những người khác.

- Có sự liên hệ với tình cảm.

- Có sự tự nguyện hy sinh đối với những giá trị được tập thể coi là cao cả.

- Có ý thức đoàn kết với mọi thành viên trong tập thể.

Cộng đồng thường được xem như một cơ cấu xã hội, là một đoàn thể con người có những giá trị chuẩn mực, đất mẹ (ranh giới lãnh thổ được xác định trong quá trình phát triển lịch sử), là cơ sở để phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác. Ranh giới hành chính cũng có thể được xem là một cơ sở để phân biệt ranh giới cộng đồng, nhưng trong thực tế thì cơ sở để phân biệt này không cao do những biến động về tổ chức hành chính.

Đoàn kết xã hội là một đặc tính hàng đầu của mỗi cộng đồng. Ý thức cộng đồng hay còn được gọi là tâm thức cộng đồng được quan niệm như là một ý chí và tình cảm chung do quá trình cùng sinh sống trong một đơn vị lãnh thổ, có những mối liên hệ về mặt huyết thống hay quan hệ láng giềng… một cộng đồng tồn tại được là do các thành viên của nó luôn tìm được tiếng nói chung và thống nhất trong mọi hành động.

Tuy nhiên, xu thế công nghiệp hóa ở các nước phát triển và đang phát triển đã đưa đến sự biến đổi các quan hệ xã hội trong cộng đồng, chủ yếu là do cơ cấu ngành nghề bị thay đổi.

Cộng đồng khi được coi như một tiến trình xã hội, là một hình thức tương quan giữa người với người có tính kết hợp, theo đó họ được gần nhau và phối hợp chặt chẽ với nhau hơn. Các cộng đồng nông thôn ít xảy ra các tiến trình theo chiều hướng ly tâm. Tính cố kết chặt, sự di động xã hội ít, sự đa dạng về nghề nghiệp không lớn, cộng thêm các yếu tố tôn giáo tín ngưỡng trong cộng đồng, làm cho các hoạt động của cộng đồng nông thôn thường có tính thống nhất cao hơn so với các cộng đồng đô thị.

Các hoạt động kinh tế không chỉ tạo ra cho cộng đồng sự bảo đảm về vật chất mà còn tạo ra sự liên kết cộng đồng.

Các cộng đồng nông thôn với một vài nghề chính, thậm chí có những nơi chỉ có thuần một nghề là do sự tương đồng về yếu tố địa lí kinh tế, phương thức sản xuất, cùng chung nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm… Yếu tố thờ chung một tổ nghề đã đem đến cho cộng đồng lớp vỏ cố kết về tinh thần. Làng nghề trong xã hội nông thôn, các phường nghề trong các đô thị cổ là những kiểu cố kết cộng đồng dựa trên cơ sở của các liên kết kinh tế.

Văn hóa là yếu tố biểu thị tổng hợp để nhận biết cộng đồng, hay nói cách khác nó là thuộc tính riêng được hình thành trong quá trình phát triển của mỗi cộng đồng. Yùếu tố văn hóa ở đây được xem xét trên ba khía cạnh cơ bản là tộc người, tôn giáo - tính ngưỡng và hệ thống giá trị và chuẩn mực (các định chế xã hội quy định lên sự nhận thức và hành

vi của các cá nhân trong cộng đồng). Phát triển cộng đồng là một quá trình trong đó có sự tăng trưởng về kinh tế cộng đồng cùng với những tiến bộ của cộng đồng theo hướng hoàn thiện về các giá trị chân – thiện – mỹ.

Vài năm gần đây, du lịch ở các nước đang phát triển là ngành đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời nó cũng đưa đến những hệ quả tiêu cực cho môi trường sinh thái và các cộng đồng dân cư bản địa. Sự thoái hóa môi trường, sự gia tăng khoảng cách về kinh tế và văn hóa giữa các cộng đồng dân cư đang làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết. DLST trong trường hợp này đã phải gánh thêm chức năng bảo tồn và phát triển cộng đồng ở các nước, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.

DLST phải dựa vào một hệ thống các quan điểm về tính chất bền vững và sự tham gia của các cộng đồng địa phương, của dân cư nông thôn và ở những nơi có tiềm năng lớn về DLST. DLST gắn kết giữa nhân dân địa phương với du khách để duy trì những khu hoang dã và những thế mạnh về sinh thái và văn hóa vốn có.

Như vậy, du lịch là một ngành kinh tế có nhiều tác động đến môi trường hơn bất cứ một ngành kinh tế nào khác, bởi vì tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho du lịch chủ yếu được khai thác từ môi trường nên hậu quả của nó (suy thoái và ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, suy thoái và giảm sút về đa dạng sinh học...) không thể lường hết được.

Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lí và kinh doanh du lịch là làm thế nào để khai thác tốt các hoạt động du lịch mà vẫn

Một phần của tài liệu BÁO CÁO THỰC TẬP-DU LỊCH SINH THÁI (Trang 84 - 92)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(285 trang)