Ở VIỆT NAM CÓ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI *
V. DU LỊCH SINH THÁI CỐ ĐÔ HUẾ
2. Định hướng tuyến, điểm DLST Huế
Soõng Hửụng
Nói đến Huế ta không thể không nhắc đến sông Hương - Bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch hội ngộ tại ngã ba Bằng Lãng, bên chân núi Kim Phụng, tạo nên dòng Sông Hương – linh hồn của vẻ đẹp xứ Huế.
Từ ngã ba Bằng Lãng, với khoảng 30km chiều dài trước khi hòa tan vào biển cả, sông Hương duyên dáng trôi đi giữa hai dãy đồi, lặng lẽ ngang qua chốn yên giấc ngàn thu của các vua Nguyễn được phong kín trong những rừng thông u tịch ở đôi bờ.
Nước sông Hương trở nên xanh hơn, êm đềm hơn khi vòng qua chân núi Ngọc Trảng – điện Hòn Chén – thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán xanh tươi ngô, đậu, rồi ôm lấy chân đồi Hà Khê – nơi tọa lạc của ngôi chùa Thiên Mụ nổi tiếng. Bắt đầu từ đây, dòng sông Hương chảy êm xuôi. Dòng nước hầu như quanh năm trong xanh, là chiếc gương soi tuyệt vời cho công viên ở đôi bờ, các công trình kiến trúc Phu Văn Lâu, Thương Bạc, khách sạn Hương Giang, khách sạn Century… và cầu Tràng Tiền như dải nơ trên mái tóc người con gái.
Rời cồn Hến, sông Hương tiếp tục nhẹ trôi giữa đôi bờ biếc xanh của vùng ngoại ô Vĩ Dạ, thẳng về ngã ba Sình, để rồi hội ngộ với sông Bồ và sông Ô Lâu, cùng hòa mình vào phá Tam Giang và lòng biển cả.
Sông Hương như là linh hồn của vẻ đẹp xứ Huế. Người ta từng ví von con sông này bằng nhiều tên gọi đượm chất thơ: “Điệu slow tình cảm”, “Người tài tử đánh đàn lúc đêm khuya”, “Cô gái thần tiên”, “Dải lụa mềm”, “Mái tóc người con gái lượn dài, lúc nào cũng óng ả ở mãi độ xuân thì”, “Dải lụa biếc trong ánh nắng trời”, “Tấm thảm nhung phản chiếu trăng sao”…. Đại thi hào Nguyễn Du cũng từng viết:
Hửụng Giang nhaỏt phieỏn nguyeọt (Hương Giang tựa một vầng trăng)
Với Cao Bá Quát thì: “Sông Hương như mộ thanh kiếm dựng ngang trời”. Hoặc nhà thơ khác thì:
“Nếu như không có dòng Hương Câu thơ xứ Huế nửa đường đánh rơi Nếu như không có dòng Hương
Người tình cho Huế, người thương nơi nào”
Thế đấy, cái sâu lắng trữ tình của người dân xứ Huế cũng do Sông Hương tạo nên. Mỗi người dân Huế đều nghĩ rằng: sông Hương là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng…, và không thể hình dung được Huế sẽ như thế nào nếu bỗng dửng soõng Hửụng bieỏn maỏt.
Núi Ngự Bình
Gắn liền với sông Hương, núi Ngự Bình là món quà vô giá khác mà tạo hóa ban tặng cho xứ Huế. Sông Hương và núi Ngự Bình trở thành biểu tượng của Huế sơn thủy hữu tình, do đó người ta còn gọi Huế bằng một tên gọi khác: miền Hương – Ngự.
Núi Ngự Bình không cao lắm, chỉ 105m. trước năm 1802, người ta gọi núi Ngự là Bằng Sơn vì đỉnh núi bằng phẳng, dáng núi uy nghi, cân đối. Sau khi lên ngôi mở đầu triều đại nhà Nguyễn (1802), vua Gia Long thấy Bằng Sơn có vẻ đẹp cao quý, bèn quyết định chọn làm tiền án của kinh thành Huế, mặc dù núi cách xa kinh thành tới 4km. Đồng thời, nhà vua đặt tên mới cho ngọn núi là Ngự Bình. Ngự Bình, từ một thực tế tự nhiên được biến thành một thực tế kiến trúc biểu tượng vương quyền, nằm trên trục chính của kinh thành – đường Trung Đạo.
Ngày xưa cũng như bây giờ, người ta từng coi núi Ngự Bình xanh rợp bóng thông là chốn thưởng ngoạn thiên nhiên tuyệt vời. Vào buổi đẹp trời, đứng trên đỉnh núi, ta có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh thành phố Huế với sông núi, cỏ cây xanh rờn, cung điện nguy nga mái chùa và nhà thờ cổ kính. Xa hơn là dãy Trường Sơn trùng điệp về phía tây; cát trắng và biển biếc ở phía đông; đồng ruộng phì nhiêu về phía nam, đông – nam và bắc, đông – bắc. Dĩ nhiên, cũng không thể quên bản giao hưởng thiên nhiên tuyệt vời của gió và ngàn thông.
Một trong những câu thơ mà người dân xứ Huế, kể cả nhiều người đang ở khắp các phương trời xa xôi, đều ghi sâu trong lòng, đó là:
“Đi đâu cũng nhớ quê mình
Nhớ Sông Hương gió mát, nhớ non Bình trăng trong”
Rừng quốc gia Bạch Mã
Hiện nay Việt Nam có 10 vườn quốc gia: Ba Bể, Tam Đảo, Ba Vì, Cát Bà, Cúc Phương, Bến Én, Bạch Mã, Cát Tiên, Côn Đảo, Yokdon.
Rừng quốc gia Bạch Mã nằm ở phía nam tỉnh, cách thành phố Huế 5km. Năm 1925 dưới thời Pháp thuộc một dự án thành lập vườn quốc gia Bạch Mã - Hải Vân rộng 50.000 ha để bảo vệ loài gà lam mào trắng do một kỹ sư người Pháp tên Gérard đề xuất dự án khu nghỉ mát Bạch Mã đến năm 1935 thì hoàn tất. Bạch Mã là một vùng rừng núi có diện tích 45km2, cao 1.444m so với mặt nước biển. Bạch Mã có khí hậu ôn hòa mát mẻ nhờ ảnh hưởng của nước biển và độ cao. Về mùa hè nhiệt độ cao nhất chỉ 19-20 độ. Vườn quốc gia Bạch Mã là trung tâm của dãi rừng xanh tự nhiên còn lại duy nhất của Việt Nam kéo dài từ biên giới Lào đến biển Đông. Là phần cuối của dãy
Trường Sơn bắc, vườn như một bức tranh hùng tráng được dệt nên bởi nhiều dãy núi cao chia cắt và thấp dần ra biển. Độ dốc bình quân của toàn khu vực là 25 độ, có nơi biến động từ 45-60 độ.
Mùa mưa bắt đầu từ
tháng 9 và kết thúc vào tháng giêng năm sau. Lượng mưa
trung bình năm khá lớn 3.500mm. Đặc biệt ở độ cao 900m đến độ cao 1.450m lượng mưa bình quân hằng năm là 7.977mm.
Vườn quốc gia Bạch Mã có 1.286 loài thực vật và 723 loài động vật đặc biệt nhất là bộ gà. Tại rừng quốc gia Bạch Mã hiện nay có khoảng 139 ngôi biệt thự xinh xắn được xây cất theo lối kiến trúc đặc biệt như khách sạn Morin, các biệt thự của các viên chức cao cấp họ Thân, họ Hồ Đắc… tạo cho Bạch Mã một bộ mặt rất mỹ lệ trên núi đồi phóng khoáng.
Những thắng cảnh nổi tiếng của Bạch Mã có thác Đỗ Quyên, suối Hoàng Yến, hải vọng đài, đường mòn trĩ sao…
b. Du lịch văn hóa truyền thống xứ Huế
Kinh thành Huế
Kinh thành Huế nguyên là thủ phủ của xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn từ 1687 – 1775, cũng là kinh đô Phú Xuân của triều Tây Sơn từ 1788 - 1801. Sau khi lên ngôi Hoàng đế (1802), vua Gia Long lại chọn địa điểm này làm trung tâm cơ quan đầu não của vương triều mới với qui mô to lớn hơn.
Kinh thành Huế được xây dựng ròng rã hơn 30 năm (1803 - 1837). Tổng thể kiến trúc Kinh thành Huế cho thấy đây là một pháo đài phòng thủ đồ sộ, kiên cố, đồng thời lại có tính nghệ thuật cao. Ngọn núi Ngự Bình cách gần 4km phía trước được chọn làm tiền án, hai hòn đảo nhỏ trên sông Hương là cồn Hến và cồn Dã Viên được dùng làm biểu tượng Tả Thanh Long và Hữu Bạch Hổ. Dòng sông Hương chảy ngang trước mặt làm yếu tố Minh Đường. Đáng chú ý là cả bốn mặt Kinh thành đều được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi
tương đối rộng gọi là sông Hộ Thành, phía trước là một đoạn của sông Hương, ba mặt còn lại là những dòng sông đào với tổng chiều dài trên 7km.
Sự phân chia khu vực trong kinh thành Huế được xác định bởi bốn vòng thành. Vòng ngoài cùng lớn nhất có tên là Kinh thành dùng để bảo vệ khu vực các cơ quan của bộ máy chính quyền trung ương. Hai vòng thành bên trong nhỏ dần mang tên Hoàng thành và Tử Cấm thành. Hoàng thành dùng để bảo vệ khu vực các cơ quan lễ nghi, chính trị quan trọng nhất của triều đình và các điện thờ. Tử Cấm thành bảo vệ nơi làm việc, ăn ở và sinh hoạt hàng ngày của nhà vua và gia đình.
Vòng thành thứ tư có tên là Trấn Bình Đài (hay Mang Cá).
Hệ thống các lăng tẩm
Ngoài hệ thống kinh thành và hoàng cung, cũng như những di tích chùa chiền. Huế còn có hệ thống lăng tẩm rất nổi tiếng (có 7 khu lăng tẩm). Bởi có quan niệm “sinh ký tử quy” (sống gởi thác về), nghĩa là cuộc sống trên trần gian này chỉ tạm bợ, cái chết mới trở về với thế giới vĩnh hằng và như thế cái nhà ở chỉ là tạm bợ, cái mồ mới là cái muôn đời. Cho nên các vua Nguyễn rất tốn công sức cho việc xây dựng lăng tẩm của mình. Vua Minh Mạng là người tìm thế đất xây lăng kỹ lưỡng nhất trong số các vua có xây lăng. Vùng đất xây lăng đó phải hội đủ bốn yếu tố:
y Tầm sơn điểm huyệt: hướng núi y Tầm thủy điểm huyệt: hướng nước y Tầm phong điểm huyệt: hướng gió
y Tầm linh điểm huyệt: hướng núi đồi bao bọc.
Có bảy lăng tẩm ở cố đô Huế, trong đó có bốn lăng lớn và đáng chú ý là lăng Gia Long, Minh Mạng, Khải Định và Tự Đức.
y Lăng Gia Long, cách Huế 18 km đường thủy.
y Lăng Minh Mạng, cách Huế 16 km đường thủy, 14 km đường bộ.
y Lăng Thiệu Trị, cách Huế 10 km.
y Lăng Tự Đức cách Huế 7 km.
y Lăng Dục Đức, do vua Thành Thái xây dựng sau khi oâng leân ngoâi.
y Lăng Đồng Khánh cách lăng Tự Đức 500 m.
y Lăng Khải Định cách Huế 10 km.
Mỗi lăng mang một dáng vẻ riêng biệt, độc đáo. Lối kiến trúc bộc lộ rõ tính hoành tráng. Lăng Minh Mạng mang dáng vẻ thâm nghiêm. Lăng Thiệu Trị có kiến trúc thanh thoát. Lăng Tự Đức thơ mộng. Lăng Khải Định tinh xảo, chịu ảnh hưởng của kiến trúc Tây phương.
Quần thể kiến trúc vua Nguyễn khác với kiến trúc lăng tẩm của các vua nhà Minh - Trung quốc ở chỗ lăng của vua Trung Quốc mang cảm giác lạnh lùng, u tịch. Còn kiến trúc lăng tẩm nhà Nguyễn là gạch nối giữa thiên nhiên và con người chính sự hòa quyện đó là một tuyệt tác thơ trong kiến trúc.
Những công trình tôn giáo - tín ngưỡng tiêu biểu ở Hueá
Trong lời nói đầu cuốn những ngôi chùa Huế, tác giả Hà Xuân Liêm viết: “Trước đây có thời gian người ta gọi Huế là Thiền Kinh, tức là Kinh đô Phật giáo”. Sở dĩ như vậy là vì Huế có quá nhiều chùa. Mà chùa chiền ở Huế lại có nhiều nét đặc trưng trong phong cách kiến trúc, phong cách tổ chức vườn chùa, phong cách giữ giới luật trai tịnh của chư tăng, phong cách cúng lễ theo Phật giáo… Qua tiến trình thời gian khoảng hơn ba trăm năm, chùa chiền xứ Huế đã mặc nhiên đóng góp nhiều cho văn hóa Phú Xuân thêm sắc màu rực rỡ.
Vì vậy, sẽ là một thiếu sót lớn nếu đến với xứ Huế tham quan mà không đến vãn cảnh một số ngôi chùa nổi tiếng của Hueá.
Chùa Thiên Mụ: Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nổi tiếng ở Việt Nam và là một đại danh lam của xứ Huế. Chùa tọa lạc trên đồi Hà Khê, bên dòng Hương Giang, thuộc địa phận xã Hương Long, cách trung tâm thành phố Huế 5km về hướng tây.
Tính đến nay, chùa đã có một lịch sử dài hơn 400 năm.
Từ khi Đại Việt tiếp nhận hai châu Ô, Rí, tại vùng đồi Hà Khê đã từng có một nơi thờ tự của người Chămpa để lại. Về sau, tại phế tích tín ngưỡng này người Việt đã dựng nên một ngôi chùa để thờ Phật và tên chùa được gọi theo tiếng dân gian là Thiên Mỗ (hay Thiên Mộ). Vào năm Tân Sửu (1601), chúa Nguyễn Hoàng trong một chuyến du ngoạn, thấy nơi đây cảnh đẹp, địa thế tốt nên đã cho dựng lại chùa Thiên Mụ để làm cảnh tụ linh khí, củng cố long mạch cho vùng Thuận Hóa nói riêng và mở cõi Nam Hà nói chung. Cùng với việc làm lại chùa Thiên Mụ, Nguyễn Hoàng cho tung ra một huyền thoại
có tính chất tâm lí chiến nhằm tạo uy thế linh thiêng cho thế lực chính trị của mình; đó là câu chuyện có một bà già mặc quần áo đỏ ngồi trên đỉnh đồi Hà Khê phán bảo sẽ có một vị chân chúa đến sửa chùa cho tụ tinh khí và củng cố long mạch để phát triển Thuận Hóa và Nam Hà.
Từ đó đến nay, do sự tàn phá của thiên nhiên và chiến tranh, chùa phải tu sửa nhiều lần. Đáng chú ý là các sự kiện:
Năm Canh Dần (1710), chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc một qủa chuông lớn gọi là Đại Hồng Chung, cao 2,50m, nặng trên 2000kg. Quả chuông là một tác phẩm nghệ thuật qúy giá đang được trưng bày tại nhà lục giác phía tây, bên phải tháp Phước Duyên.
Năm Giáp Ngọ (1714), sau khi cho sửa chữa, chùa Thiên Mụ trở thành một đại sơn môn, rộng và đẹp hơn trước rất nhiều, chúa Nguyễn Phúc Chu cho dựng một tấm bia cẩm thạch rất lớn, cao 2,60m, rộng 1,2m và khắc bài văn bia của Quốc chúa nói về việc xây dựng chùa. Bia được đặt trên lưng một con rùa bằng đá được chạm trổ rất tinh xảo. Bia hiện đặt trong nhà lục giác phía đông, bên trái tháp Phước Duyên.
Sự kiện lớn nhất của chùa Thiên Mụ là cuộc đại trùng tu ngôi chùa vào năm Thiệu Trị thứ tư (1844). Nhà vua đã kiến thiết chùa Thiên Mụ thành thắng cảnh nổi tiếng có giá trị về mặt kiến trúc và văn hóa Phật giáo; nhất là việc xây dựng ngôi bảo tháp Phước Duyên bảy tầng, cao khoảng 21m. Tháp Phước Duyên không chỉ là biểu tượng của chùa Thiên Mụ mà còn trở thành biểu tượng của xứ Huế xinh đẹp, cổ kính.
Với lối kiến trúc độc đáo uy nghiêm, với thiên nhiên hữu tình thơ mộng, chùa Thiên Mụ được xem là một thắng cảnh đẹp nhất của Huế.
Chùa Trúc Lâm: Chùa Trúc Lâm tọa lạc giữa rừng thông xanh tươi dưới chân đồi Dương Xuân, xã Thuỷ Xuân của thành phố Huế. Chùa được xây dựng vào năm 1903 dưới thời vua Thành Thái.
Trúc Lâm không phải là ngôi chùa vào loại cổ nhất ở Huế, nhưng rất có danh tiếng. Một cơ sở của trường đại học Phật giáo đầu tiên tại Huế đã ra đời ở đây vào năm 1931 đó là An Nam Phật học hội. Nhiều vị hòa thượng danh tiếng đã từng tu hành tại chùa Trúc Lâm: Hòa thượng Thích Mật Hiển, Hòa thượng Thích Mật Nguyện, Hòa thượng Thích Mật Theồ…
Tại chùa còn lưu giữ một số cổ vật quý, trong đó có một bản kinh Phật bằng chữ Hán thêu trên vải. Bản kinh này có gần 7000 chữ. Các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng, cổ vật này được làm dưới thời vua Quang Trung (1758-1792) - một vị vua thiên tài của Việt Nam. Trong bản kinh có bài tựa của vua Quang Trung dài 248 chữ.
Ngoài ra, đến Huế không quên các đặc trưng về nghệ thuật văn hóa truyền thống như âm nhạc cung đình Huế, muùa daân gian,…