PHÁT TRIỂN DLST KHU BTTN ĐẤT NGẬP NƯỚC

Một phần của tài liệu BÁO CÁO THỰC TẬP-DU LỊCH SINH THÁI (Trang 185 - 190)

Ở VIỆT NAM CÓ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI *

VI. PHÁT TRIỂN DLST KHU BTTN ĐẤT NGẬP NƯỚC

Khu BTTN đất ngập nước Tràm Chim rộng 7.612ha, nằm giữa 4 xã: Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thọ và Tân Công Sinh thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, nằm cách thị trấn huyện lỵ nơi gần nhất là 800m đường chim bay. Toàn khu Tràm Chim nằm trên một vùng đất trũng tương đối bằng phẳng, rải rác có những cồn cát cao từ 0,5m đến 2,5m so với mực nước biển, xung quanh khu bảo tồn còn có nhiều kênh rạch ngang dọc.

Khu Tràm Chim nằm trong vùng Đồng Tháp Mười “nửa năm nắng hạn, nửa năm nước nổi” nên có thể xem đây là một phần thu nhỏ của hệ sinh thái vùng Đồng Tháp Mười.

Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm sẵn có của hệ sinh thái đất ngập nước Đồng Tháp Mười, thì nơi đây là nơi tập trung đông đảo các loài chim, đặc biệt là sếu đầu đỏ, một loài chim quý hiếm trên thế giới.

1. Sự hình thành và phát triển của khu BTTN Tràm Chim

Ngày 2 tháng 2 năm 1994, thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 47/TTg quy định khu đất ngập nước Tràm Chim thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp là “Khu BTTN của quốc gia”. Từ đó trở đi khu bảo tồn đất ngập nước chính thức được thành lập, ban quản lí khu bảo tồn trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Vốn ban đầu đầu tư cho các hoạt động của khu bảo tồn trong giai đoạn từ 1994 đến năm 2000 là 4 tỉ đồng. Sự kiện đó cũng tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức quốc tế giúp đỡ đầu tư phát triển khu vực này.

a. Các mục tiêu và chức năng cơ bản của khu bảo toàn

Theo luận chứng đã được duyệt (tháng 2/1994) các mục tiêu và chức năng cơ bản của khu bảo tồn là:

y Bảo tồn đa dạng sinh học của hệ sinh thái ngập nước điển hình của ĐBSCL, cũng như của Đông Nam Á.

y Bảo vệ cảnh quan ngập nước sinh động của vùng Đồng Tháp Mười cổ xưa. Bảo vệ khu cư trú của các loài sinh vật vùng ngập nước, đặc biệt là các loài chim nước di cư quý hiếm, cùng với việc bảo tồn các loài thực vật bản địa.

y Sử dụng một cách hợp lí nguồn tài nguyên đất đai, động thực vật và cảnh quan tự nhiên của hệ sinh thái đất ngập nước trên cơ sở bảo vệ môi trường, duy trì cân bằng sinh thái để phục vụ cho các nhu cầu thiết yếu của xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, và các nhu cầu tham quan, giải trí, để mang lại lợi ích vật chaỏt cho nhaõn daõn trong vuứng.

y Phát huy những tính năng tích cực của hệ sinh thái đấ ngập nước trong việc bảo vệ môi trường, duy trì nguồn nước, hạn chế lũ lụt.

b. Đặc điểm tự nhiên khu vực Tràm Chim

ƒ Địa mạo cảnh quan

Theo các nhà khoa học, khu vực Tràm Chim vốn nằm trong vùng lòng sông cổ, thuộc vùng đồng bồi trẻ và thấp.

Vùng này xưa kia từng tồn tại một lòng sông cổ mà dấu vết

còn lại hiện nay là các vùng trũng thấp tự nhiên. Sau đó lòng sông cổ bị bồi đắp dần, trên vùng hình thành hệ thống rạch nhỏ chằng chịt, ngắn, ngoằn ngèo và nhiều rạch không theo một hướng nhất định nào.

Ở gần bờ sông Tiền, một số rạch được kết nối lại dùng tạo nhánh để vượt qua các giồng đất cao ven sông. Tuy nằm trong vùng đồng bồi thấp nhưng do gần với sông Tiền và nằm trên lòng sông cổ nên địa hình khu Tràm Chim không thực sự bằng phẳng và đồng nhất.

Tràm Chim được bao bọc bởi các kênh Phú Thành ở phía tây, Phú Hiệp ở phía đông, kênh Đồng Tiến ở phía nam và kênh An Bình ở phía bắc. Trong các kênh trên, kênh Đồng Tiến là lớn hơn cả và là kênh trục nối từ sông Tiền sang sông Vàm Cỏ Tây.

Hiện nay, ngoài việc được bao bọc bởi hệ thống kênh và bờ bao, ngay bên khu Tràm Chim còn có hai kênh nhỏ là kênh Mười Nhẹ, nối từ kênh Đồng Tiến sang kênh Phú Hiệp.

ƒ Điều kiện khí hậu khu Tràm Chim

Nằm trong vùng Đồng Tháp Mười và cũng là trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, khu Tràm Chim có chế độ nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt độ cao quanh năm, mưa nhiều và phân hóa theo mùa mạnh mẽ. Nhiệt độ trung bình hàng năm trên khu khoảng 270c, và lượng nhiệt khá đều trong năm, chỉ cao hơn 1 - 20C trong các tháng cuối mùa khô, đầu mùa mưa (tháng 4 – 6) và thấp hơn cũng chỉ 1 - 20C trong các tháng đầu mùa khô (tháng 12 đến tháng 2 năm sau). Nhiệt độ tối cao tuyệt đối giới hạn trong khoảng 37 - 380C và nhiệt độ tối

thấp tuyệt đối cũng chưa bao giờ xuống đến dưới giới hạn 150C. Nhiệt độ như vậy rất thích hợp cho các loài cây nhiệt đới phát triển.

– Độ ẩm trung bình năm chỉ dao động trong khoảng 82 - 83%.

– Lượng bốc hơi trên bề mặt nước có thể đạt từ 1500 – 1600 mm/naêm.

Hàng năm khu Tràm Chim có khoảng 2.600 giờ nắng;

trung bình có 8,5 - 9 giờ nắng/ngày vào các tháng khô hạn nhất và từ 5,0 - 5,5 giờ nắng/ngày trong các tháng mưa nhiều.

Về lượng gió thì gió có gió mùa Tây – Nam vào mùa mưa và gió Đông – Bắc vào mùa khô là hai hướng gió mùa thịnh hành trên khu Tràm Chim. Các hướng gió khác tuy thỉnh thoảng cũng xuất hiện trong các thời kỳ chuyển tiếp và đôi khi ngay cả giữa mùa có hướng gió chính thịnh hành, nhửng nhỡn chung khoõng nhieàu.

Mưa là sản phẩm của gió mùa, nhưng chính mưa đã tạo nên sự khác biệt và phân hóa rõ rệt theo mùa khí hậu trong năm. Hằng năm, trên khu Tràm Chim thường xuất hiện một mùa mưa khá dài từ 6 – 7 tháng (khoảng từ tháng 5 – tháng 11) và một mùa khô cũng không kém phần khắc nghiệt với 5 – 6 tháng trong năm (tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau). Tổng lượng mưa trung bình năm rơi trên khu Tràm Chim khoảng 1.400 mm. Trong mùa mưa, lượng mưa mỗi tháng đạt chừng 150mm, với đỉnh cao rơi vào hai tháng 9 và tháng 10, mỗi tháng trên 250 mm.

ƒ Đặc điểm đất đai của Tràm Chim

Khu BTTN Tràm Chim nằm ở vùng đồng lụt kín Đồng Tháp Mười. Địa hình ở đây trũng, khó tiêu nước, bị bao bọc bởi các dãy đất cao ở phía Tây Bắc của bậc thềm phù sa cổ, phía tây bị bao bọc bởi các giồng cát ven sông Tiền, phía đông và đông nam với dấu tích của các giồng cát. Đất phèn được hình thành trên các đồng lầy nước lợ rộng lớn, chứa nhiều xác hữu cơ của thảm thực vật nước lợ trong thời kỳ đầm lầy hóa.

Lớp bùn sét tích lũy nhiều pyrit (FeS2) vật liệu sinh phèn lợ gần mặt đất hình thành đất phèn nặng với lượng độc chất cao, khó cải tạo. Vì trầm tích đất sét nặng có độ thấm cao, khi bị ôxy hóa thì dễ dàng xuất hiện khoáng jarosit màu vàng rơm thường gây độc cho cây trồng.

Ở phía bắc và phía đông của khu Tràm Chim (kênh Phú Hiệp) địa hình có cao hơn và là vùng chuyển tiếp giữa bậc thềm phù sa cổ và phù sa hiện đại, địa hình cao nên lớp phủ mỏng, đất đai phần lớn là bậc thềm phù sa cổ, thành phần cơ giới nhẹ hình thành nên các loại đất xám.

ƒ Tài nguyên sinh vật của khu bảo tồn Tràm Chim o Hệ thực vật

Nằm trên nền khí hậu cận xích đạo mưa nhiều, nắng, nhiệt độ cao quanh năm, cộng với sự bằng phẳng và có phần trũng thấp của địa hình khiến lũ hàng năm ngập tràn đồng ruộng, sâu từ 0,5m đến vài mét, kéo dài từ 2 - 5 tháng. Có nơi có mùa khô khắc nghiệt đến 5 – 6 tháng liền hầu như

không mưa, mặt đất nhiều nơi nứt nẻ, khi những cơn mưa đầu mùa xuất hiện cuốn phèn tỏa khắp vùng, đã tạo cho vùng Đồng Tháp Mười nói chung và khu Tràm Chim nói riêng một cảnh quan đất ướt khá đa dạng.

Vì khu bảo tồn Tràm Chim là một phần thu nhỏ của Đồng Tháp Mười nên hệ thực vật ở đây cũng là đặc trưng của Đồng Tháp Mười, đó là kiểu rừng kín lá rộng thường xanh ngập nước theo mùa trên đất chua phèn.

Có sáu quần xã thực vật chính được tìm thấy trong khu bảo tồn bao gồm:

– Quần xã sen (Nelumbo nucyfera) có diện tích 63,8 ha;

kiểu quần xã này thường xuất hiện ở những nơi có đất thấp như bưng, vùng ẩm lầy gần như ngập nước quanh năm (không khô hẳn vào mùa khô). Các quần xã sen là nơi ăn, sinh sản và trú ẩn của các loài trích, cúm núm, óc cao, chàng nghịch, vịt trời, le le…

– Quần xã lúa ma (Oryza rufipogon) có diện tích khoảng 678,4 ha; kiểu quần xã này thường xuất hiện ở những nơi có độ cao trung bình. Các quần xã lúa ma là nơi ăn, sinh sản và trú ẩn của các loài trích, vịt trời, le le… các loài khỏc như diệc, vạc, cũ, cồng cụùc, già đẩy, giang sen, sếu… ăn ở đồng lúa ma, ngủ và sinh sản ở các nơi khác như rừng tràm, đồng sậy.

– Quần xã cỏ ống (Panicam repens) có diện tích 1965,9 ha; kiểu quần xã này thường xuất hiện ở những nơi có độ cao khác nhau, nhưng phổ biến và chiếm ưu thế ở những nơi đất cao. Các quần xã cỏ ống là nơi ăn của các loài chim. Có

hai loài chim tiêu biểu vừa ăn, vừa sinh sản và ngủ trong quần xã này là công đất và nhạn.

– Quần xã năng ống (Eleocharis dulcis) có diện tích 898,8 ha; kiểu quần xã này thường xuất hiện ở nơi có độ cao trung bình. Các quần xã năng ống là nơi ăn của các loài tiêu biểu như sếu, giang sen và già đẩy.

– Quần xã mầm mốc (Ischaemum rugosum) có diện tích 305,1 ha; kiểu quần xã này thường xuất hiện ở nơi có độ cao trung bình.

– Quần xã rừng Tràm có diện tích 3.018,9 ha. Toàn bộ các khu rừng Tràm trong khu bảo tồn là là các khu rừng được trồng ở độ tuổi từ 4 – 20, mật độ biến thiên trong khoảng từ 5.000 - 20.000 cây/ha.

o Hệ động vật

Có 198 loài chim thuộc 49 họ được tìm thấy ở khu Tràm Chim. Trong đó có 88% được tìm thấy ở khu bảo tồn vào mùa khô và trong số 198 loài chim này có 16 loài đang bị đe dọa ở quy mô toàn cầu.

Các loài tiêu biểu gồm: sếu cổ trụi (Grusantigone sharpii), già đẩy lớn (Leptotilos dubius), già đẩy Java (Leptotilos Javanicus), cò quắm đầu đen (Threskiornis melanocephalus), cò thìa (Platalea minor), đại bàng đen (Aquila clanga), te vàng (Vanellus cinerus), choi choi lưng đen (Charadrius pernorii).

Điều kiện địa mạo – thủy văn – thổ nhưỡng như đã mô tả trên đây đã làm cho hệ thống rễ cây tràm tự nhiên đã

hoàn toàn phù hợp với điều kiện sình lầy đọng nước và mọc thành quần thụ rộng lớn ở Đồng tháp Mười. Những quần tụ thuần loại tràm này đã tạo nơi ở thích hợp cho rất nhiều loài chim nước và các loài động vật khác như: diệc lửa (Ardea pupurea), diệc xám (Ardea cinea), cò ngàng lớn (Egretta alba), cò ngàng nhỏ (Egretta intermedia), cò trắng (Egetta garzetta), cồng cọc (phalacrocorax niger), cò bợ (Ardea speciosa).

Hệ thống rễ tràm dày đặc là nơi cư ngụ và đẻ trứng của nhiều loài động vật đáy, các loài sò, vọp, cua, và nhiều loại động vật khác như rùa, ba ba, ếch nhái… ngoài ra đây cũng là môi trường thích hợp của các loài tảo. Trên mặt nước, các cành cây là nơi sinh sống của các loài động vật không xương sống như ong, kiến, nhện và các loài côn trùng khác.

Bên cạnh đó, sự đa dang của thảm thực vật đã tạo nơi ở cho nhiều loài bò sát như trăn, rắn, rùa, lươn, và trước đây có đủ cả đồi mồi, cá sấu từ biển Hồ (Campuchia) di cư xuống.

Vào mùa lũ, trên những cây gáo có khi có tới vài chục con rắn sống quấn quyện với nhau. Thế nhưng do sự biến đổi ngày càng mạnh của vùng này, ngày nay chúng ta không còn thấy xuất hiện những loài như cá sấu, đồi mồi… và một số loài khác cũng dần dần hiếm thấy.

Chế độ thủy văn của khu vực bảo tồn này rất thích hợp với nhiều loài chim nước di cư. Nhiều loài vịt trời như:

Northern Pintails (Anus acuta), Northern shouellers (Anus penelope), Spotr – billed duck (Anus poecilorhyn), Garganey (Anus quequedula) và Whistling ducks (dendropcygra

javanica)… kiếm ăn trên thảm thực vật nổi thủy sinh và những động vật đang sống ở nơi đất sình đất trống.

Những vùng đầm lầy đọng nước ở khu Tràm Chim này cũng làm tăng sự sinh sôi nảy nở của các loài động vật không xương sống một cách nhanh chóng, đặc biệt là muỗi và đỉa – hai loài động vật rất phổ biến và có rất nhiều ở vùng Đồng Tháp Mười. Bên cạnh đó sự bùng nổ về số lượng của các loài sâu bọ ở nơi đây cũng kéo theo sự bùng nổ hoạt động của các loài chim ăn sâu bọ.

2. Định hướng phát triển DLST Tràm Chim vùng Đồng Tháp Mười

Như chúng ta đã biết, khu bảo tồn Tràm Chim được xem như một bảo tàng lớn về hệ sinh thái đất ngập nước, trong đó nổi bậc là cảnh quan thiên nhiên vùng Đồng Tháp Mười với các loài chim quý hiếm đang sinh sống tại đây. Khung cảnh của khu bảo tồn cần được bảo vệ nguyên vẹn trong một khung cảnh của đất ngập nước nhưng cần được chỉnh trang hợp lí để nổi bật những nét độc đáo của các vùng đất ngập nước vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Vì thế mà chúng ta cần chú ý đến các yếu tố sau để lồng ghép DLST vào điều kiện Tràm Chim:

- Phát huy các giá trị của hệ sinh thái đất ngập nước để phục vụ cho nhu cầu tham quan, du lịch, giáo dục bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

- Tổ chức tham quan du lịch để phát huy những giá trị về môi trường và cảnh quan của hệ sinh thái đối với cộng đồng và xã hội.

Ban quản lí khu bảo tồn cần phối hợp chặt chẽ với Sở Thương mại - Du lịch tỉnh Đồng Tháp để xây dựng chương trình tham quan du lịch trong địa bàn khu bảo tồn. Đưa khu bảo tồn tràm Chim vào chương trình phát triển du lịch của tổnh.

Khi nói đến khu bảo tồn Tràm Chim, điều đầu tiên mà chúng ta mong đợi đó là được biết đến sếu đầu đỏ hay còn có một cái tên khác là con hạc là một trong 16 loài chim quý đang có nguy cơ bị tuyệt chủng trên thế giới. Chính điều này đã thu hút du khách và các nhà nghiên cứu trên thế giới đến để tham quan nghiên cứu. Ngoài sếu đầu đỏ (được xem là loài chim đặc trưng của khu bảo tồn), thì cảnh quan nơi đây còn có hệ động thực vật rất phong phú và đa dạng, là điều kiện tốt để thu hút những du khách quan tâm đến hoạt động du lịch sinh thái.

Bên cạnh đó, chúng ta còn có thể xây dựng một chương trình tham quan kết hợp khu Tràm Chim và cảnh quan diện mạo vùng Đồng tháp Mười như: rừng tràm ngập nước, các quần xã sen, súng… Tuy nhiên vì cảnh quan đặc biệt là “nửa năm nắng hạn, nửa năm mùa nước dâng” của vùng Đồng tháp Mười, nên khi tổ chức, xây dựng một chương trình du lịch, chúng ta cần chú ý đến thời gian vì sếu chỉ về từ tháng 1 đến tháng 5 hàng năm, các tháng còn lại là thời gian đàn sếu di cư để tránh lũ. Vì vậy từ tháng 1 đến tháng 5 là mùa khách có thể tham quan Tràm Chim.

Vấn đề mở cửa khu Tràm Chim và đón khách tham quan du lịch sinh thái là điều tất yếu. Tuy nhiên, như đã nói ở phần đầu, du lịch sinh thái không chỉ là hướng tham quan

du lịch cảnh thiên nhiên đơn thuần, mà đó còn là mối quan tâm về giữ gìn môi trường, bảo tồn thiên nhiên. Ngoài giáo dục, hướng dẫn du khách về ý thức bảo vệ Tràm Chim cần giáo dục việc giữ gìn cảnh quan môi trường sống yên lành của các loài chim và không làm xáo trộn môi trường tự nhiên vốn có ở đây.

Tràm Chim Tam Nông, một Đồng Tháp Mười thu nhỏ.

Với lịch sử tự nhiên của vùng sinh thái tổng hợp giữa điều kiện địa mạo thủy văn và sinh vật ngập nước sinh động.

Hôm nay và trong tương lai chắc chắn khu bảo tồn đất ngập nước vùng Đồng Tháp Mười sẽ trở thành một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn.

Một phần của tài liệu BÁO CÁO THỰC TẬP-DU LỊCH SINH THÁI (Trang 185 - 190)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(285 trang)