ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DLST PHÚ QUỐC

Một phần của tài liệu BÁO CÁO THỰC TẬP-DU LỊCH SINH THÁI (Trang 195 - 200)

Ở VIỆT NAM CÓ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI *

VIII. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DLST PHÚ QUỐC

Phú Quốc có lịch sử khai hoang lập ấp khá lâu đời so với các vùng khác trong lưu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Trước đây Phú Quốc là hải đảo hoang vắng. Đến cuối thế kỷ thứ XVII, Mạc Cửu từ Trung Quốc đến Hà Tiên chiêu mộ dân phiêu lưu ở Phú Quốc và các nơi thành lập 7 xã thôn. Vùng đất Phú Quốc từ đây bắt đầu có người cai quản. Năm 1780,

Mạc Cửu xát nhập Hà Tiên vào Đàng Trong, Phú Quốc trở thành đơn vị hành chính thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Lịch sử Phú Quốc thể hiện đầy đủ nội dung xây dựng, gìn giữ và truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam. Ngay từ thời nhà Nguyễn, năm 1785, Nguyễn Ánh cầm đầu hạm đội của mình cùng nhân dân trên đảo đánh tan đoàn quân cướp biển Mã Lai. Dưới triều Minh Mạng – Thiệu Trị, lực lượng phòng trú ở đây suy yếu dần, hải tặc ra sức tung hoành, quân Xiêm kéo sang đánh phá. Cho đến năm 1868, anh hùng Nguyễn Trung Trực đã chọn Phú Quốc làm căn cứ chống Pháp nhưng sau đó cuộc khởi nghĩa của ông đã bị thất bại. Phú Quốc từ đó đã bị lọt vào tay đế quốc Pháp và năm 1975 Phú Quốc mới hoàn toàn được giải phóng.

Đất nước thống nhất, cuộc sống của người dân Phú Quốc được nâng cao, cùng với xu thế chung của cả nước Phú Quốc ngày càng đi lên về mọi mặt. Chính vì thế ngày nay Phú Quốc được phong tặng cho nhiều danh hiệu khác nhau như

“Vương quốc giữa biển khơi” hay “Hòn đảo làm giàu Tổ quốc”.

2. Tổng quan về đảo Phú Quốc

Phú Quốc không chỉ là nơi tẩu quốc của vua Gia Long, nơi hùng cứ của anh hùng Nguyễn Trung Trực, nơi sản xuất ra loại nước mắm hảo hạng nổi tiếng… mà Phú Quốc còn là một giang sơn cẩm tú, một Việt Nam thu nhỏ, một thắng cảnh nên thơ, một nơi du lịch lí tưởng. Vị trí địa lí của Phú Quốc rất thuận lợi, nằm gọn trong vùng biển giàu có về tài nguyên. Nó được xem là ngư trường lớn nhất với trữ lượng hải sản dồi dào nhất nước ta. Thiên nhiên đã dành cho Phú Quốc một sự trù phú bất ngờ: đây là nơi tập trung của hỗn

hợp nhiều hệ sinh thái từ biển, hồ, sông, suối, đến đồng bằng, rừng rậm, với nhiều loại gỗ quý, chim, thú quý hiếm…

Cư dân nơi đây hiền lành, mến khách với khối óc và đôi tay cần mẫn đã góp phần vào sự giàu có của đảo bằng những vườn tiêu bát ngát, bằng hương vị nước mắm đậm đà. Phú Quốc là một trong những địa điểm hấp dẫn, du lịch Phú Quốc là hành trình về chốn hoang sơ kỳ bí.

Phú Quốc thuộc hệ sinh thái vùng quần đảo nhỏ, bao gồm một đảo lớn và một số đảo nhỏ xung quanh (cụ thể là thuộc nhóm các hệ sinh thái biển – đảo theo hệ thống phân loại hệ sinh thái chung của Việt Nam). Đặc trưng của nó là vừa mang tính chất của hệ sinh thái đảo độc lập (khu hệ sinh vật tập trung chủ yếu trên đảo và quanh đảo), vừa mang tính chất của hệ sinh thái quần đảo (có các vũng, vịnh và vùng cư trú nhỏ riêng rẽ giữa đảo lớn và các đảo nhỏ). Vì vậy, tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái vùng quần đảo trở nên phong phú hơn hệ sinh thái các đảo độc lập. Phú Quốc là một đảo giàu tiềm năng du lịch, hải sản và là huyện đảo lớn nhất Việt Nam được mệnh danh là “Viên ngọc bích của vùng biển phía Nam”.

a. Vị trí địa lí và địa hình

Phú Quốc nằm phía Tây Nam Việt Nam thuộc tỉnh Kiên Giang, nằm trong Vịnh Thái Lan với diện tích là 593 km2. Chiều dài từ Bắc xuống Nam là 52 km, nơi hẹp nhất là 3m, rộng nhất là 25 km. Dân số hơn 75.000 người.

Toạ độ địa lý: từ 103 0 29’ đến 104 0 9’kinh Đông và từ 9048’ đến 10026’ vĩ Bắc. Phú Quốc cách thị xã Rạch Giá (Kiên

Giang) 120km, huyện Hà Tiên là 46 km và cách đường lãnh hải Campuchia – Việt Nam là 4.5 km.

Từ Bắc xuống Nam Phú Quốc có 99 ngọn đồi nhấp nhô.

Hệ thống núi đồi ở bắc bán đảo gồm hai dãy núi (dãy Hà Ninh dài 30 km, ở phía đông với những dãy núi khá cao: núi Chúa (603m), núi Vồ Quặng (473m), núi Đá Bạc (448m)). Phú Quốc bốn bề là biển nhưng nhờ có rừng nên đảo có sông, thác, suối, tầng nước ngầm ngọt lịm.

b. Thổ nhưỡng

Sở dĩ Phú Quốc có sự đa dạng về hệ sinh thái vì ở đây có sự phong phú về các loại đất, bao gồm các loại đất chính sau: đất ferralit màu vàng xám, với diện tích 20.644ha thích hợp trồng các loại cây ăn trái, cây công nghiệp lâu năm; đất ferralit vàng đỏ trên sa thạch, khoảng 2450ha thích hợp với trồng tiêu; đất ferralit xói mòn trơ sỏi đá, khoảng 5.571ha, thích hợp cho trồng rừng; đất sialit ferralit xám, 9.000ha, loại đất này chủ yếu để trồng cây lâu năm; đất phù sa gley chua, 644ha, nơi phát sinh của rừng tràm; đất cát, 8.933ha, phù hợp nhất cho trồng phi lao và trồng dừa; đất sét mặn, diện tích khoảng 426ha, thuận lợi cho trồng lại rừng đước, vẹt và có thể nuôi tôm thẻ, tôm bạc.

c. Khí hậu

Trên đảo có hai mùa mưa và khô, mùa mưa với gió mùa Tây Nam thổi mạnh vào bờ từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô với gió mùa Đông Bắc thuận tiện cho du lịch. Nhìn chung khí hậu ở Phú Quốc khá ôn hòa (mang tính ổn định cao), hầu

như quanh năm đều mát mẻ. Về mùa khô có tháng nóng nhưng không oi bức cả ngày.

Nhiệt độ trung bình vào khoảng 260 - 270C, biên độ nhiệt trong năm từ 1 - 20C. Lượng mưa trung bình năm khoảng 2800 – 3200mm, số ngày mưa từ 120 – 150 ngày nhưng tập trung 95% vào 8 tháng mùa mưa. Độ ẩm trung bình năm khoảng 83–

85% và lượng mây trung bình khoảng 7/10.

c. Tài nguyên du lịch

ƒ Hệ động vật

Do sự phong phú về sinh cảnh nên đảo Phú Quốc có sự đa dạng khá lớn về chủng loại loài. Theo tài liệu điều tra khảo sát của Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng II hiện nay Phú Quốc có một hệ động vật khá phong phú, bao gồm các loài chính sau:

Loài có vú

Bao gồm những bầy khỉ (Macaca. sp) khá đông trong các khu rừng già nguyên thuỷ ở Hàm Ninh, núi Tượng; loài chó Phú Quốc (Canis dingo) là một trong những loài thú có vú còn xót lại ở đảo: màu lông xám tuyền, lưng có xoáy, một loại chó săn, giữ nhà tốt; heo rừng (Sus scrofa); nai (Cervus unicolor);

rái cá (Lutra Lutra) trong rừng rậm nhiệt đới ẩm.

Bộ ăn thịt (Carnivorea)

Mèo rừng, chồn, cáo (Felis, Herpetes, Viverrra), linh trưởng (Primates), khỉ vàng (Macaca Mulata), vượn (Hylobates concolor), khỉ độc.

Bộ dơi

Dôi muoãi (Tophozous theobaldil), dôi sen (Cyrosinh tháierus bradryoptis), dơi lá mũ (Hipposisderos ponona), dơi quạ (Megaerops erandatus) đây là một loài dơi lớn, sải cánh rộng trên 1m, hiện còn rất ít ở các địa phương khác như U Minh và Tịnh Biên.

Lớp chim (Aves)

Ngoài một số chim nước, bộ cò thường thấy ở rừng ngập mặn và rừng úng phèn chủ yếu gồm các loài cò (Egretta ssp), diệc (Ardea ssp), vạc (Nyctycorax sp), Điên điển (Anhiga).

Một số chim rừng khác như: cu (Reptopelia ssp), bìm bịp (Centropus sinensis), chẽo chẹt (Halcyon chloris), gõ kiến (Cervus macrorhincus), ủieàn traộng (Elanus cacruleus).

Lớp bò sát (Reptilia)

Nơi đây phát hiện được một số loài rùa vàng (Malayemys subtripiga), ba ba (Trionyx cartilagenus), vích (Cheloniamydus) – một loại rùa biển lớn, thịt trứng đều ăn ngon, đang bị đánh bắt quá mức, đặc biệt có đồi mồi (Eremochelys imbricata) – là một loài rùa có vẩy đẹp làm đồ mỹ nghệ, đã nuôi được, có thể là đặc hữu ở vùng biển nước ta. Ngoài ra còn có: cá sấu Thái Lan (Crocodylus siamensis), kỳ đà (Varanus salvator), cần đước (Hycremys sulfetrijuga), tắc kè (Gekko gekko) trong rừng rậm ẩm nhiệt đới.

Họ trăn rắn

Traờn gaỏm (Python reticalatus), raộn ủuoõi keõu, raộn luùc (Trimeresaurus granineus) rất độc, thường gây tai nạn vì có màu xanh dễ lẫn với cây cỏ, rắn hổ mang chúa (Ophiophugrei harmah), rắn cạp nong hay rắn mai gầm (Fasciatus), rắn cạp

nia (Candidus), rắn hổ hành (Xenopelters unicolor) và rắn lá khoõ (Dryophis previnus) raỏt nguy hieồm, raộn bieồn (Hydrophidae).

Sinh vật biển

Biển quanh đảo là một biển cạn, có nhiều thủy sản quý, trong đó tôm, mực, cá là nguồn tài nguyên lớn. Đặc biệt có những loài cá chế biến thành nước mắm Phú Quốc nổi tiếng của ta, như cá cơm (Stolephorus commersonii) trong họ cá cơm (Englanlidae), cá Trích (Sardinella jssieu) và cá nục (Decapterus russelli).

Ngoài các chủng loài trên Phú Quốc còn là nơi lưu trú của hàng chục loài động vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam, điển hình làmột số loài sau:

Động vật trên cạn

o Vượn tay trắng (Hylobateslar)

Đây là loài vượn có thân hình giống như vượn đen, chúng thuộc họ vượn Hylobatidae, bộ linh trưởng Primates.

Giữa con đực và con cái có sự khác nhau, con đực có bàn chân, bàn tay trắng, xung quanh mặt viền lông trắng (hoặc vàng nhạt, vàng xanh), ở con cái, mình và chân tay vàng nhạt đều, xung quanh mặt trắng. Thức ăn của chúng chủ yếu là quả, lá nõn cây. Mùa sinh sản không xác định, thường hai năm đẻ một lứa, mỗi lứa đẻ một con. Khu vực cư trú hẹp và ít thay đổi, thường chúng sống trong rừng già trên núi cao.

Chúng thuộc bậc E trong phân loại sách đỏ thế giới.

o Taộc keứ

Họ tắc kè Gekonidae. Bộ có vảy Squamata.

Tắc kè có đầu hẹp, gần hình tam giác, phủ vảy nhỏ dạng hạt. Mí mắt là một màng trong suốt, không cử động, con ngươi dọc. Ở lưng có nhiều nốt sần lớn. Mặt dưới đùi có một hàng vảy có lỗ vảy, từ 8-11 lỗ mỗi bên. Có hai lỗ dưới hậu môn. Chân năm ngón có vuốt (trừ ngón một không có).

Dưới các ngón có những bản mỏng chạy ngang. Mặt lưng xám nhạt, có nhiều chấm sáng hay vàng nhạt. Bụng trắng đục đôi khi xám rất nhạt pha nhiều chấm vàng nhỏ. Đuôi có 6-9 khúc xám xen 6-9 khúc vàng nhạt, ở con già không rõ. Chiều dài thân tới 150mm, đuôi 120mm.

Thức ăn chính là những loài côn trùng với khối lượng thức ăn hàng ngày xấp xỉ 5% trọng lượng cơ thể. Tắc kè đẻ trứng từ tháng 5 đến tháng 8, thường là một năm đẻ một lứa hai trứng.

Tắc kè ở rừng núi, sống trong những hốc cây, kẽ đá, hang hốc có độ cao từ 3-8m so với mặt đất.

Giá trị: làm nguồn dược liệu và xuất khẩu có giá trị.

o Rồng đất

Họ nhông Agamidae. Bộ có vảy Squamidae.

Rồng đất có thân hình dẹp bên. Vảy thân thường nhỏ đồng đều. Có một màu cổ và một màu lưng. Đuôi dẹp bên, có 4-8 lỗ đùi (ở mặt trong đùi). Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt rồng đất với các loại nhông khác. Mặt trên thân rồng đất có màu xanh thẫm, mặt bụng màu trắng, đuôi có những khúc xám nâu xen kẽ với những khúc vàng. Chiều dài cơ thể

khoảng 240mm. Rồng đất ăn sâu bọ, giun đất, trong điều kiện nuôi rồng đất ăn thịt động vật.

Rồng đất thường ở trong hang hốc, trong các bụi cây ven bờ suối hoặc bên các vực nước trong rừng. Chúng di chuyển nhanh nhẹn trên mặt đất hoặc leo trên cây. Trong mùa lạnh rồng đất chuyển lên trú trong các bọng cây.

Giá trị: có giá trị thẩm mỹ và còn có thể dùng làm thực phaồm.

o Kì đà vân

Họ kì đà Varanidae. Bộ có vảy Squamata.

Kì đà vân có thân hình và kích thước tương tự như kì đà nước, song chúng có lỗ mũi ở vị trí gần mắt hơn đầu mõm.

Thân chúng có màu vàng xám, rải rác có các đốm vàng nhỏ.

Ở lưng có nhiều vết xám to xếp theo chiều ngang, nhưng những vết này không rõ ở đuôi. Chiều dài cơ thể khoảng từ 1700-2000m.

Thức ăn là sâu bọ, ếch nhái, thằn lằn, chim và thú nhỏ.

Kì đà vân cái đào hố đẻ trứng, số lượng khoảng 24 quả vào mùa mưa. Sống chủ yếu ở rừng núi, đôi khi chúng cũng bò xuống nước song không ở lâu. Chúng bơi giỏi, leo trèo giỏi và thường kiếm ăn ở trên mặt đất hoặc trên cây, thường sống trong hang hốc do chúng tự đào, trong gốc cây hoặc dưới các tảng đá lớn.

Giá trị: có giá trị thẩm mỹ, thực phẩm và dược liệu; da thuộc có giá trị thương mại cao.

o Traên gaám

Một phần của tài liệu BÁO CÁO THỰC TẬP-DU LỊCH SINH THÁI (Trang 195 - 200)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(285 trang)