Chương 4. Phương pháp dạy học đại học
2. Các phương pháp dạy học
2.1. Nhóm phương pháp dạy học dùng lời nói và chữ viết Lời nói và chữ viết với tư cách là một nguồn tri thức phong phú. Nhóm này được chia làm các phương pháp cụ thể sau:
2.1.1. Phương pháp thuyết trình
Là phương pháp người dạy sử dụng lời nói để trình bày tài liệu học tập cho người học một cách có hệ thống.
Phương pháp thuyết trình được sử dụng khi giảng bài mới, khi trình bày, làm sáng tỏ một vấn đề phức tạp, khó, khi hệ thống hóa, khái quát hóa, tổng kết.
Thuyết trình có ba hình thức cơ bản, đó là giảng thuật, giảng giải và giảng diễn.
Giảng thuật: là một phương pháp thuyết trình có chứa đựng các yếu tố trần thuật và mô tả. Giảng thuật được sử dụng rộng rãi trong việc dạy các môn lịch sử, tiếng Việt... Trong khi giảng thuật, người dạy có thể sử dụng các đồ dùng trực quan để người học dễ hiểu bài và hứng thú học tập; có thể đặt một số câu hỏi để thu hút sự chú ý của người học, để kiểm tra việc lĩnh hội tri thức cũng như phát huy tính tích cực tư duy của người học .
Giảng giải: là dùng luận cứ, số liệu để chứng minh các nguyên tắc, định lý, công thức.. trong toán học, từ ngữ, ngữ pháp... phương pháp này chứa đựng yếu tố suy luận và phán đoán, có nhiều khả năng phát huy trí thông minh sáng tạo của người học.
Giảng diễn (hay diễn giảng, thuyết trình, lecturing): là phương pháp dùng lời và các phương tiện phi ngôn ngữ khác để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó; tạo ra sự liên kết giữa vấn đề đó với kinh nghiệm hiện có của người học, qua đó giúp người học lĩnh hội được nó.
Giảng diễn trình bày bằng lời một khối lượng lớn tài liệu học tập có nội dung sâu sắc, khái quát, có hệ thống, với các yếu tố cấu trúc liên hệ hữu cơ với nhau. Thuyết trình được sử dụng phổ biến trong giảng dạy nội dung lí thuyết mang tính hệ thống, phức tạp và cho số lượng sinh viên lớn. Bài diễn giảng hay bài giảng lí thuyết là một hình thức dạy học chủ yếu trong dạy học đại học.
Đặc điểm:
- Định hướng một cách tổng thể về đối tượng nghiên cứu của môn học.
- Kết hợp cách truyền đạt kiến thức theo kiểu thông báo và khả năng tiếp nhận kiến thức thụ động, tức là tạo cho sinh viên có khả năng tiếp nhận thông tin.
- Xử lí thông tin một cách có tư duy.
- Phát triển các quá trình vận dụng trí nhớ của người học.
Việc truyền đạt kiến thức cần phải được bổ sung thêm các hướng dẫn về phương pháp tiếp nhận thông tin, xử lí, lưu giữ thông tin và đánh giá các thông tin đó.
Nội dung thuyết trình có thể là:
- Kiến thức chuyên môn (các khái niệm, mối tương quan, các định luật, các quy luật...);
- Kiến thức về mặt phương pháp (phương pháp, cách thức tiến hành, kĩ thuật ....);
- Kiến thức về hành vi ứng xử (các qui tắc ứng xử, nhận thức về nghĩa vụ trách nhiệm....);
- Kiến thức về giá trị (đánh giá các giá trị, nhận thức về các giá trị);
Qui trình bài thuyết trình:
- Mở đầu (gây chú ý, giới thiệu, câu hỏi, khái quát nội dung, liên hệ...) - Trình bày (sắp xếp thông tin lôgic, ngôn ngữ, phân bổ thời gian...) - Kết nối, củng cố (theo trật tự thời gian, không gian, nhân quả, chủ đề..)
- Kết thúc (nhấn mạnh, tổng kết, liên hệ, đánh giá, kiểm tra...) Trong quá trình dạy học, người dạy có thể kết hợp giảng giải, giảng thuật với giảng diễn; có thể sử dụng phương tiện trực quan; có thể đặt câu hỏi hay vấn đề để người học tích cực tham gia chứng minh. Ở đây vai trò của người dạy trong khâu tổ chức, điều khiển là rất quan trọng. Người dạy phải khéo léo đặt vấn đề, hướng dẫn người học tích cực, độc lập giải quyết.
Những ưu điểm của phương pháp thuyết trình:
- Chỉ trong một thời gian nhất định, người dạy có thể trình bày tài liệu học tập một cách có hệ thống;
- Giúp người học nắm vững hệ thống tri thức một cách có hệ thống và hoàn chỉnh, nhất là những vấn đề khó và phức tạp;
- Có tác động mạnh mẽ tới tư tưởng, tình cảm của người học qua giọng nói, phong cách sư phạm của thầy;
Những nhược điểm của phương pháp thuyết trình:
- Dễ làm cho người học tiếp thu một cách thụ động, chóng mệt mỏi;
- Người dạy khó có thể tìm hiểu được việc nắm tri thức của người học;
- Khó thu được những thông tin ngược từ người học;
Những yêu cầu cơ bản đối với phương pháp thuyết trình:
- Bảo đảm tính khoa học, tính giáo dục, tính thực tiễn của nội dung thuyết trình, trong đó, cần chú ý tới tính chính xác của các sự kiện, ý nghĩa tư tưởng - chính trị của tài liệu, bản chất của vấn đề được đưa ra nghiên cứu.
- Bảo đảm tính tuần tự lôgic của việc trình bày tài liệu, sao cho các tri thức được sắp xếp một cách hệ thống, đi từ cái đã biết đến cái chưa biết;
- Bảo đảm sự trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu của việc trình bày tài liệu, sao cho những tư tưởng cơ bản được người học nắm một cách dễ dàng, chính xác;
- Bảo đảm tính hình tượng và diễn cảm của việc trình bày tài liệu, sách gây được ở người học ấn tượng sinh động, tình cảm mạnh mẽ, ý chí và hứng thú học tập;
- Bảo đảm thu hút được sự chú ý và phát huy được tính tích cực tư duy của người học, qua giọng nói, tốc độ nói; qua mẩu chuyện vui; qua cách đặt và giải quyết các tình huống có vấn đề; qua việc vận dụng phối hợp các phương pháp khác. Cần nói thêm rằng, nói chung, thời gian dành cho người dạy thuyết trình không nên quá 15 phút liên tục.
2.1.2. Phương pháp vấn đáp
Là phương pháp hỏi, đáp giữa người dạy và người học nhằm làm sáng tỏ vấn đề mới, tìm ra những tri thức mới; rút ra những kết luận cần thiết từ những tài liệu đã học hoặc những kinh nghiệm trong
thực tiễn; củng cố, ôn tập, mở rộng, đào sâu tri thức hay kiểm tra việc nắm tri thức của người học.
Các phương pháp vấn đáp cơ bản: vấn đáp gợi mở, vấn đáp củng cố, vấn đáp tổng kết, vấn đáp kiểm tra.
Vấn đáp gợi mở được sử dụng khi cung cấp tri thức mới, trong đó người dạy khéo léo đặt câu hỏi, khéo léo dẫn dắt người học rút ra những kết luận mới. Trong nhà trường, phương pháp này có ý nghĩa to lớn. Nó tạo điều kiện cho người học phát huy được tính tích cực, độc lập nhận thức, phát triển được hứng thú học tập và khát vọng tìm kiếm vấn đề để giải quyết.
Vấn đáp củng cố được sử dụng sau khi giảng tri thức mới (thường dùng ở cuối bài mới), trong giờ luyện tập, ôn tập, sau khi kiểm tra tri thức. Nhờ đó giúp người học củng cố được những tri thức cơ bản nhất, chủ yếu nhất và hệ thống hóa chúng, mở rộng và đào sâu những kiến thức đã thu lượm được; khắc phục được tính chất hình thức, tính chất mơ hồ, thiếu chính xác của việc nắm tri thức.
Vấn đáp tổng kết được sử dụng khi cần dẫn dắt người học khái quát hóa, hệ thống hóa những tri thức đã học sau một vấn đề, một phần một chương hay một môn học nhất định. Nó giúp cho người học phát triển năng lực khái quát hóa hệ thống hóa; nắm tri thức một cách có hệ thống; khắc phục những tính chất rời rạc; hình thức của các đơn vị tri thức cần nắm được. Phương pháp này giúp cho người học phát huy tính mềm dẻo của tư duy.
Vấn đáp kiểm tra được sử dụng trước, trong và sau giờ giảng;
sau khi học một hay nhiêu bài; một hay nhiều chương hay toàn bộ môn học. Nó giúp người dạy kiểm tra được tri thức của người học một cách nhanh gọn, kịp thời để nếu cần thiết, sẽ giúp người học bổ sung, củng cố tri thức. Mặt khác, nó cũng giúp người học kiểm tra tri thức của mình một cách kịp thời.
Thực tiễn dạy học cho thấy ở bậc người dạy thường sử dụng ba trong bốn dạng phương pháp dạy vấn đáp trên trong giờ lên lớp. Ví dụ trong khi dạy bài mới, người dạy sử dụng vấn đáp gợi mở (cung cấp tri thức mới); vấn đáp củng cố (hệ thống lại tri thức người học
vừa lĩnh hội, vấn đáp kiểm tra được đựoc sử dụng trong suốt giờ học để người dạy luôn có thông tin ngược từ phía người học để kịp thời điều chỉnh phương pháp dạy học của bản thân cũng như phương pháp học tập của người học.
Còn trong giờ thực hành, người dạy sử dụng vấn đáp củng cố để tái hiện lại nơi người học những điều đã học (ghi nhớ và nhớ lại);
vấn đáp tổng kết nhằm hệ thống hóa, khái quát hóa những tri thức trên cơ sở đó còn phát triển tính mềm dẻo của tư duy; vấn đáp kiểm tra vẫn luôn sử dụng trong giờ này.
Ưu điểm của phương pháp vấn đáp
- Phát huy tính tích cực độc lập trong học tập của người học.
- Bồi dưỡng năng lực diễn đạt ngôn ngữ nói.
- Tạo ra không khí học tập sôi nổi trong giờ học.
- Giúp người dạy thu được những tín hiệu ngược một cách nhanh nhất để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy và học cho phù hợp với mục đích, yêu cầu đã đề ra.
Nhược điểm của phương pháp vấn đáp
- Nếu vận dụng không khéo sẽ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới kế hoạch dạy học.
- Có khi biến vấn đáp thành cuộc tranh luận tay đôi, không mang lại hiệu quả dạy học.
Một số yêu cầu đối với phương pháp vấn đáp:
Khi thực hiện phương pháp vấn đáp chúng ta phải chú ý đến những yêu cầu đối với câu hỏi, những yêu cầu đối với việc nêu câu hỏi và điều khiển người học trả lời câu hỏi, những yêu cầu đối với người học.
Đối với câu hỏi: việc xây dựng câu hỏi có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó có ảnh hưởng lớn, nhiều khi có tác dụng quyết định đến kết quả trả lời của người học. Do đó, khi xây dựng câu hỏi, người dạy cần tuân theo yêu cầu sau:
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung vấn đáp để xây dựng một hệ thống câu hỏi chính và những câu hỏi phụ có tính chất gợi mở;
- Đặt câu hỏi với nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, sát với trình độ của người học;
- Đặt câu hỏi có tác dụng kích thích tính tính cực, độc lập tư duy, phát triển hứng thú nhận thức của người học. Không nên đặt câu hỏi chỉ cần trả lời “có”/“không”, hoặc những câu hỏi đánh lừa người học.
Trong thực tiễn dạy học, người dạy thường xây dựng những loại câu hỏi sau đây: những câu hỏi đòi hỏi người học giải thích các hiện tượng mới; những câu hỏi đòi hỏi người học so sánh các sự vật hiện tượng; những câu hỏi đòi hỏi người học hệ thống hoá, khái quát hoá tri thức đã tiếp thu được; những câu hỏi đòi hỏi người học chứng minh các sự kiện, hiện tượng; những câu hỏi đòi hỏi người học giải quyết những mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tượng, những câu hỏi đòi hỏi người học vận dụng những tri thức đã học để giải quyết những vấn đề thực tế.
Đối với việc nêu câu hỏi và điều khiển người học trả lời:
- Việc nêu câu hỏi cho toàn lớp phải thu hút được sự chú ý và kích thích hoạt động chung của cả lớp, sau đó người dạy mới chỉ định một người học nào đó trả lời.
- Khi một người học trả lời, yêu cầu cả lớp chăm chú nghe, phát biểu ý kiến bổ sung; chú ý tới những người học rụt rè, nhút nhát.
- Người dạy cần chăm chú theo dõi câu trả lời của người học, khi cần phải gợi mở; tránh để lãng phí thời gian, tránh vội vàng nôn nóng, tránh những hành vi thiếu tôn trọng nhân cách người học;
phải chú ý uốn nắn, bổ sung câu trả lời của người học, tổng kết, hệ thống hoá những tri thức mà người học thu lượm được trong quá trình vấn đáp.
Đối với người học:
- Phải tập trung chú ý nghe câu hỏi, ý thức đầy đủ và chính xác câu hỏi;
- Tích cực suy nghĩ, khơi dậy vốn tri thức cũ của mình, tìm ra câu trả lời tối ưu trong thời gian ngắn nhất; tránh trả lời vội vàng, rập khuôn theo sách, theo lời thầy giảng;
- Chăm chú nghe bạn trả lời, có nhận xét bổ sung; tránh nhắc bạn; mạnh dạn nêu thắc mắc và tham gia tranh luận khi người dạy yêu cầu.
2.1.3. Phương pháp dùng sách giáo khoa/giáo trình và các tài liệu khác
Trong quá trình dạy học, việc sử dụng giáo trình và tài liệu học tập là phương pháp vô cùng cần thiết và quan trọng:
- Giáo trình/giáo trình và tài liệu học tập là phương tiện cho người học chuẩn bị bài, làm bài tập thực hành, hay học tập ngay trên lớp. Như vậy giáo trình và tài liệu học tập góp phần đắc lực cho việc tiếp thu tri thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho người học.
- Khi sử dụng giáo trình và tài liệu học tập, người học làm quen với luyện cách đọc, cách ghi chép, cách phân tích và ghi tóm tắt, cách làm việc độc lập (làm bài tập trên lớp hay ở theo yêu cầu trong sách).
- Giáo trình và tài liệu học tập được dùng như các tài liệu minh họa cho bài giảng trên lớp, đồng thời người học có thể theo dõi bài giảng đó qua sách của bản thân. Như vậy, cùng với bài giảng, người học theo dõi sách với các hình ảnh minh họa, các bài học các con số, các bài tập với nhiều tình huống khác nhau đã được soạn thảo thành văn bản... giúp cho người học học tập tốt hơn nội dung trên lớp. Đây là công việc phức tạp đối với người học, vì vừa phải theo dõi bài giảng của người dạy, vừa phải làm việc với giáo trình. Công việc này sẽ trở thành thói quen phù hợp với người học, nếu người dạy biết tổ chức hướng dẫn một cách khoa học việc sử dụng sách trên lớp.
- Giáo trình và tài liệu học tập được sử dụng để tự học ở nhà như một nguồn thông tin quan trọng bổ sung cho bài dạy trên lớp.
Như vậy, việc sử dụng sách ở trên lớp hay ở nhà đều có tầm quan trọng và ý nghĩa nhất định. Nếu như việc sử dụng sách trên lớp đòi hỏi người học phải có sự phối hợp đồng bộ giữa phương pháp tiếp nhận bài giảng của người dạy và làm việc với giáo trình; thì khi ở nhà, người học phải độc lập nghiên cứu giáo trình và tài liệu học tập. Để phương pháp này đạt hiệu quả, cần thực hiện tốt những yêu cầu sau.
Yêu cầu khi sử dụng sách:
Đối với người dạy:
- Khi chuẩn bị lên lớp, cần nghiên cứu kỹ giáo trình để tìm những phần người học có thể tự đọc và hiểu được; những phần người học đọc hiểu người học đọc hiểu nhưng cần được giải thích chứng minh thêm bằng bài giảng, bằng thực tế; những phần người học không thể tự hiểu; những phần có thể nâng cao hay mở rộng; những ý có thể dựa vào đó để đặt câu hỏi, để ra bài tập ở nhà theo sách.
- Trên lớp, người dạy nên giảng kỹ những phần quan trọng, những trọng tâm; giải thích những từ mới, thuật ngữ mới; hướng dẫn người học những giải các bài tập trong sách, tập ghi tóm tắt, sử dụng hình vẽ, mô hình trong sách... Thủ thuật dạy học như vậy, có tác dụng tập cho người học nhận rõ những tri thức cần nắm, ý thức rõ ý nghĩa thực tiễn của tài liệu nghiên cứu, kích thích người học suy nghĩ.
- Người dạy cần lưu ý hướng dẫn người học sử dụng giáo trình và tài liệu học tập sao cho phù hợp với yêu cầu học tập và đặc điểm nhận thức của người học; cần đề phòng và chống các xu hướng không đúng như giảng dạy thoát ly hẳn giáo trình. Song cũng không nên giảng dạy quá phụ thuộc vào giáo trình, cản trở sự phát triển, tính tích cực tư duy cũng như hứng thú học tập của người học.
Tóm lại, người người dạy cần nhận thức đầy đủ rằng việc dùng giáo trình và tài liệu học tập cần được sự hướng dẫn. Đây là một công việc đòi hỏi người người dạy phải kiên trì, có phương pháp sư phạm thích hợp để tập dần cho người học một phương pháp làm việc với giáo trình và tài liệu học tập một cách khoa học.
Đối với người học:
Trên cơ sở hướng dẫn của người dạy, người học cần hình thành được những phẩm chất và kỹ năng sau:
- Tích cực tư duy trong khi đọc giúp cho việc lĩnh hội tri thức có hiệu quả cao.
- Biết xử lí những thông tin thu được để lập dàn ý, viết tóm tắt, viết thu hoạch, làm bài tập.