2.1 Khái quát về VNPT Hà Nội
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngày 6/12/2007, Hội đồng Quản trị Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
đã có quyết định số 625/QĐ-TCCB/HĐQT về việc chính thức thành lập Viễn thông Hà Nội ( hay VNPT Hà Nội).
Theo đó, Viễn thông Hà Nội là doanh nghiệp được chia tách từ Bưu điện Thành phố Hà Nội (cũ). Sau hơn nửa thế kỷ thành lập và phát triển, kể từ ngày 1/1/2008, Bưu điện Thành phố Hà Nội (cũ) đã chính thức được chia tách thành 2 pháp nhân mới, đó là Bưu điện Thành phố Hà Nội (mới) và Viễn thông Hà Nội. Đây là kết quả của tiến trình đổi mới tổ chức tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam theo chủ tr−ơng của Nhà n−ớc về việc tổ chức mô hình Tập đoàn và chia tách bưu chính viễn thông, nhằm tạo điều kiện cho kinh doanh bưu chính, viễn thông cùng phát triển, kịp thời thích ứng với môi tr−ờng cạnh tranh, hội nhập.
Theo quyết định phê duyệt của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Viễn thông Hà Nội là đơn vị kinh tế trực thuộc hạch toán phụ thuộc Tập đoàn, có chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh và phục vụ chuyên ngành viễn thông và công nghệ thông tin: đó là tổ chức xây dựng, quản lý vận hành, lắp đặt, khai thác, bảo d−ỡng, sửa chữa mạng viễn thông- công nghệ thông tin; cung cấp dịch vụ viễn thông hệ 1; tổ chức phục vụ thông tin đột xuất theo yêu cầu của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương; tư vấn khảo sát, thiết kế các công trình viễn thông- công nghệ thông tin; kinh doanh vật t−, thiết bị viễn thông- CNTT; kinh doanh các ngành nghề khác trong phạm vi đ−ợc Tập đoàn BC-VT VN cho phép và phù hợp với quy
định của pháp luật. Bộ máy tổ chức của Viễn thông Hà Nội bao gồm 7 đơn vị sản xuất trực thuộc (3 trung tâm, 4 công ty), các phòng ban chức năng và Phòng Viễn thông Hệ 1 - đơn vị chuyên đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ lãnh đạo Thành phố Hà Nội.
Luận văn tốt nghiệp Cao học Quản trị kinh doanh
Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị thế của mình trên Thế giới, khi mối liên kết, giao lưu giữa Việt Nam và các nước trên thế giới đang ngày càng đ−ợc thắt chặt, thì Viễn thông Thủ đô càng trở thành một mắt xích liên lạc quan trọng giữa Việt Nam với bạn bè quốc tế. Hơn thế nữa, Viễn thông Thủ đô còn là nhịp cầu nối tình cảm không thể thiếu của nhân dân Hà Nội với nhân dân khắp các miền đất nước. Viễn thông Hà Nội hôm nay càng nhận thức rõ nhiệm vụ trọng yếu trong kinh doanh và phục vụ của mình. Sự kiện chính thức thành lập Viễn thông Hà Nội đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của Viễn thông Thủ đô. Với vị trí hoạt động độc lập nh− hiện nay, Viễn thông Hà Nội có khả năng nhận biết rõ hơn thế mạnh, hạn chế của mình để tìm ra những giải pháp cụ thể, sát với điều kiện kinh doanh trong môi trường cạnh tranh - đó chính là cơ hội
để đ−ợc cạnh tranh lành mạnh, hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế n−ớc ta hiện nay.
Mạng lưới của Viễn thông Hà Nội đã là một mạng lưới rộng khắp, được khởi nguồn xây dựng từ rất lâu. Bởi lẽ, tiền thân của Viễn thông Hà Nội là Bưu điện Thành phố Hà Nội với bề dày lịch sử truyền thống hơn 50 năm.
Cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 19, người Pháp đã xây dựng ở Hà Nội một hệ thống thông tin tương đối đầy đủ bao gồm cả điện báo, điện thoại. Lúc đó, thông tin điện báo đã đ−ợc thiết lập giữa Hà Nội với Sài gòn, Vinh, Huế, Đà Nẵng. Hệ thống
đường dây hữu tuyến đã được xây dựng để giữ liên lạc giữa Hà Nội - Sài gòn và Hà Nội - Hải Phòng. Mục đích xây dựng các công trình thông tin này trước hết là để phục vụ cho việc bình định và đàn áp nhân dân ta, nên mọi đường dây và trang thiết bị đều đ−ợc bố trí ở các đồn binh, khu vực quân sự quan trọng, sở cảnh sát, mật thám, các công sở, cơ quan đầu não của ng−ời Pháp. Sau 7 thập kỷ kể từ khi ng−ời Pháp đến Việt Nam (1884 - 1954), mạng lưới thông tin ở Hà Nội chỉ bao gồm: 1 tổng đài điện thoại cộng điện (có dung l−ợng 1500 số và gần 600 thuê bao); một mạng cáp ngầm với đường dây nổi khoảng 1200 đôi; một số máy điện báo, máy vô
tuyến điện công suất nhỏ và rất lạc hậu so với thế giới.
Ngày 10/10/1954, Thủ đô Hà Nội đ−ợc giải phóng. Chính trong ngày này, những người làm công tác thông tin liên lạc cách mạng đã được tiếp quản Bưu điện
Luận văn tốt nghiệp Cao học Quản trị kinh doanh
Hà Nội trong đó có mạng lưới thông tin do người Pháp để lại. Sau này ngày 10/10/1954 được coi là ngày thành lập Bưu điện Thành phố Hà Nội. Ngay sau khi tiếp quản, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn từ cơ sở vật chất đến nhân lực, Bưu điện Hà Nội đã từng bước cùng nhân dân thủ đô bắt tay vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định sản xuất. Bưu điện Hà Nội trở thành trung tâm thông tin liên lạc của n−ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, phục vụ nhân dân và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chi viện cho miền Nam và n−ớc bạn Lào, chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.
Trong thời kỳ những năm đầu thập kỷ 70, Hà Nội bị đánh phá ác liệt, mạng lưới thông tin bị thiệt hại nhiều. Mặc dù vậy, thông tin phục vụ chiến đấu vẫn được
đảm bảo thường xuyên, góp phần không nhỏ vào những chiến công của quân và dân ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc .
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước (30/4/1975), việc đẩy mạnh phát triển kinh tế trở thành nhiệm vụ hàng đầu, đòi hỏi mạng lưới ngành Bưu điện, đặc biệt là mạng điện thoại phải phát triển nhanh để phục vụ. Trong khi đó, mạng lưới thông tin ở Hà Nội phần lớn xây dựng từ thời Pháp thuộc, chất l−ợng đã xấu lại trải qua nhiều lần bị đánh phá h− hại nên càng xuống cấp nghiêm trọng, khi đó Bưu điện Hà Nội phải đối mặt với muôn vàn những khó khăn và thử thách mới.
Từ năm 1975 đến 1990, Bưu điện Hà Nội vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa từng b−ớc bắt tay vào xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho mạng l−ới. Sau những năm chuyển đổi cơ chế quản lý, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng theo tinh thần nghị quyết Đại hội lần VI (12/1986), trải qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, bằng những nỗ lực trong công tác tiếp cận công nghệ mới, Bưu điện Hà Nội
đã v−ợt qua những khó khăn trì trệ và khủng hoảng của thời kỳ bao cấp. Ngày 15/11/1990 tại Hà Nội đã diễn ra lễ khánh thành và đ−a vào hoạt động tổng đài điện thoại điện tử E10B giai đoạn 1 dung l−ợng 15.000 số. Đây là công trình có ý nghĩa to lớn không chỉ có dung l−ợng lớn mà còn ở tính chất hiện đại, không chỉ cải thiện cơ bản hệ thống thông tin nội hạt mà còn thực hiện đ−ợc tự động hoá hoàn toàn việc liên lạc liên tỉnh và quốc tế.
Luận văn tốt nghiệp Cao học Quản trị kinh doanh
Cùng với việc ra đời tổng đài điện báo điện tử Telex Alpha, Trạm vệ tinh mặt
đất Intelsat, tổng đài điện tử E10B và mạng thông tin viba số, Hà Nội đã thực hiện chiến lược tự động hoá, số hoá mạng viễn thông của ngành, tạo bước ngoặt làm thay
đổi chất l−ợng hoạt động thông tin, đáp ứng một phần các yêu cầu thông tin trong n−ớc và quốc tế.
Kể từ năm 1990, những bước đi đột phá của ngành Bưu điện đã làm thay đổi toàn diện hệ thống thông tin liên lạc Việt Nam. Đặc biệt tại Hà Nội, nhiều thiết bị hiện đại, nhiều loại hình dịch vụ mới được đưa vào mạng lưới. Trải qua 2 giai đoạn tăng tốc lần thứ nhất 1990 - 1995, và lần thứ hai 1996 - 2000, đội ngũ những người làm công tác viễn thông trong Bưu điện Hà Nội đã kịp thời từng bước tháo gỡ những vướng mắc, hoàn toàn làm chủ các thiết bị thông tin vừa đảm bảo thông tin liên lạc
để phục vụ tốt, vừa kinh doanh tốt. Năm 1993, Bưu điện Hà Nội là đơn vị thử nghiệm mạng điện thoại di động GSM đầu tiên trong cả nước (Mobifone), và năm 1996 tiếp tục khai trương mạng điện thoại di động thứ 2 (Vinaphone). Tiếp đó vào tháng 12/1997 dịch vụ Internet ra đời. Sau các giai đoạn tăng tốc, mạng lưới viễn thông Hà Nội vẫn giữ vững nhịp độ tăng trưởng không ngừng về số lượng thuê bao
điện thoại các mạng và sản l−ợng các cuộc điện thoại. Nếu nh− năm 1990, Hà Nội chỉ phát triển đ−ợc 1200 máy điện thoại, thì đến hết năm 1999 đã phát triển đ−ợc 56.700 máy, tăng 47 lần so với năm đầu tiên thực hiện chiến l−ợc tăng tốc. Chính vì
vậy, doanh thu của Bưu điện Thành phố Hà Nội cũng tăng lên rất nhanh: từ 25 tỷ
đồng năm 1990 lên tới 1510 tỷ đồng năm 1999, gấp hơn 60 lần so với năm đầu thực hiện chiến l−ợc tăng tốc.
Năm 2006, để phù hợp với đặc điểm tình hình phát triển của nền kinh tế đất nước, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập và phê duyệt điều lệ tổ chức hoạt động của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Sau đó Thủ tướng cũng quyết định về việc tổ chức kinh doanh mạng viễn thông nội hạt của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam trên địa bàn Hà Nội.
Đến hết năm 2007, mặc dù chịu sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt của các doanh nghiệp viễn thông trên địa bàn, mạng lưới viễn thông của Bưu điện Thành phố Hà Nội đã có gần 1 triệu thuê bao điện thoại cố định, hơn 100 ngàn thuê bao
Luận văn tốt nghiệp Cao học Quản trị kinh doanh
MegaVNN và MeagaWan, hàng trăm ngàn thuê bao cityphone, truyền số liệu…
Doanh thu của Viễn thông Hà Nội vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong Bưu điện Thành phố Hà Nội: 2465 tỷ đồng\tổng doanh thu 2662 tỷ đồng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, xu thế hội nhập giữa viễn thông - tin học - truyền thông và xu thế toàn cầu hoá dịch vụ vừa là cơ hội, vừa là những thách thức lớn đặt ra cho Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam cũng như tập thể những người làm công tác viễn thông ở Bưu điện TP Hà Nội. Nhiệm vụ phát triển một mạng viễn thông bền vững, đủ sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và tiếp tục hiện đại hoá mạng lưới đòi hỏi Tập đoàn Bưu chính Viễn thông phải có phương án
đổi mới tổ chức hoạt động kinh doanh để phù hợp với đặc điểm nền kinh tế của đất n−ớc trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.