4.1.1 Đường tiêu hóa
a) Qua miệng: một số chất độc xâm nhập vào cơ thể qua ăn uống có thể được hấp thu ngay tại niêm mạc miệng. Các chất độc hấp thu được qua niêm mạc miệng rất nguy hiểm bởi chúng không bị ảnh hưởng của dịch dạ dày và không được qua gan khử độc trước khi đi vào tuần hoàn chung.
b) Qua dạ dày: nhiều chất hóa học có tính acid yếu được hấp thu nhanh chóng qua dạ dày.
c) Ruột non: tốc độ hấp thu các chất khuếch tán qua thành ruột cũng được quyết định bởi hằng số phân ly và tính tan được trong lipid của chúng.
4.1.2. Đường hô hấp
Hô hấp là đường vào chính của nhiều chất độc công nghiệp. Chất độc hít phải vào phổi có thể đi vào tuần hoàn chung ngay.
Diện tích các phế nang được ước lượng là khoảng 80m2. Trong phế nang, không khí chỉ được tách ra khỏi máu mao mạch qua một vách có chiều dày từ 1/10 đến 1/20 cm. Chính vì vậy nhiều chất độc ở dạng hơi, khí dung dễ dàng qua các vách phế nang để vào máu. Mức tiếp xúc của cơ thể với chất độc (T) sẽ phụ thuộc vào nồng độ (c) của chất độc trong không khí môi trường và thời gian tiếp xúc (t), được tính theo công thức:
T = c. t
Các chất hấp thu theo đường phổi sẽ theo hệ thống tuần hoàn tới thẳng các cơ quan khác nhau (não, thận) mà không qua gan như các chất vào bằng đường tiêu hóa.
4.1.3. Đường da
Việc vận chuyển qua da có thể được thực hiện bằng hai đường chính:
đường qua biểu bì và đường qua nang lông, tuyến bã. Vận chuyển qua biểu bì thì không nhanh bằng đường qua nang lông, tuyến bã nhưng vì diện tích biểu bì lớn hơn, nên ở da sự hấp thu chủ yếu diễn ra qua đường biểu bì.
Sự vận chuyển qua biểu bì thực hiện chủ yếu bằng khuếch tán thụ động và hàng rào chính đối với khuếch tán là lớp sừng.
4.2. Sự hấp thu của chất độc vào máu
Chất độc hấp thu vào máu với tốc độ và số lượng khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tính chất vật lý và hóa học của chất độc (độ hoà tan trong nước hay trong lipid, khả năng liên kết với các cấu trúc đặc hiệu và không đặc hiệu...), tình trạng cơ thể (tuổi, giới, thể tạng, màng tế bào, thành mạch, tuần hoàn tại chỗ...), các yếu tố bên ngoài (có mặt của các yếu tố làm tăng hấp thu, các chất hoà tan, điều kiện tại chỗ...). Vì vậy có chất độc xâm nhập nhưng sự hấp thu vào máu không hoàn toàn
4.3. Sự phân bố của chất độc trong cơ thể 4.3.1. Sự phân bố
Sau khi hấp thu vào máu và bạch mạch, chất độc được phân bố đến cơ quan tổ chức, tế bào bằng cơ chế đối lưu hoặc khuếch tán (do chênh lệch về nồng độ). Quá trình phân bố kết thúc khi chất độc tập kết tại vị trí tấn công đặc hiệu. Quá trình phân bố chịu ảnh hưởng của một số yếu tố sau:
- Sự phân bố mao mạch và cung cấp máu trong cơ quan, tổ chức.
- Tình trạng của màng mao mạch tại chỗ.
- Cấu trúc, chức năng của màng tế bào.
- Ái lực hóa học giữa chất độc với các cấu trúc đặc hiệu.
Một số chất độc được tích luỹ dưới dạng không hoạt động trong một số tổ chức, ví dụ: các hợp chất phospho hữu cơ tích luỹ trong tổ chức mỡ, hợp chất chì, asen tích luỹ trong tổ chức xương... Từ các vị trí này, chất độc có thể giải phóng trở lại ở dạng hoạt động. Một số chất độc có khả năng liên kết với protein huyết tương ngay sau khi hấp thu vào máu như: chất độc yperit, CS, chất độc thần kinh...
cấu trúc bên trong, đồng thời cũng có thể quay trở ra dịch ngoại bào hoặc máu.
4.3.2. Sự kết hợp giữa chất độc với vị trí tấn công đặc hiệu
Vị trí tấn công đặc hiệu còn được gọi là tế bào đích hoặc thụ thể (receptor). Có thể có một số lượng lớn xâm nhập vào cơ thể nhưng chỉ những phân tử chất độc nào kết hợp với tế bào đích mới gây ra tác dụng độc. Nghĩa là giữa chất độc và vị trí tấn công phải phù hợp về mặt cấu trúc.
Lực kết hợp càng chặt, số lượng thụ thể bị chiếm chỗ càng nhiều thì tác dụng của chất độc càng mạnh. Do đó, cường độ tác dụng của một chất độc phụ thuộc vào những yếu tố sau:
- Ái lực hóa học giữa chất độc và thụ thể.
- Nồng độ chất độc tại chỗ.
- Sự phù hợp về mặt cấu trúc của hai thành phần tham gia có bị các yếu tố khác làm thay đổi không.
- Một số điều kiện tại chỗ: pH, nồng độ các chất điện giải...
Như vậy chất độc được phân bố trong cơ thể, một phần tích luỹ lại trong các tổ chức, một phần được tác dụng với các receptor.
4.4. Biến đổi của chất độc trong cơ thể
Chất độc chịu sự tác động của các yếu tố trong cơ quan, tổ chức và bị biến đổi, chuyển hóa. Có những chất độc vẫn giữ nguyên trạng thái ban đầu cho đến khi thải trừ ra ngoài. Phần lớn các chất đều bị thay đổi về mặt cấu trúc hóa học cũng như tính chất ban đầu. Có một số chất độc thông qua quá trình biến đổi sinh hóa chuyển thành sản phẩm không độc hoặc ít độc hơn để rồi thải trừ ra khỏi cơ thể. Trái lại, có một số chất độc bị thay đổi tính chất trở thành dạng có hoạt tính hóa học mạnh hơn và độc hơn trong cơ thể.
Sự tương tác giữa chất độc với cơ thể thường thông qua các phản ứng sau:
- Phản ứng liên hợp - Phản ứng khử ôxy - Phản ứng ôxy hóa khử - Phản ứng thuỷ phân
4.5. Thải trừ
Các chất độc hoặc sản phẩm biến đổi của chúng được thải trừ bởi:
- Nước tiểu là con đường đào thải nhiều nhất.
- Mật.
- Không khí thở ra.
- Mồ hôi.
- Nước bọt.
- Sữa.
- Các chất tiết khác (như ở đường ruột dạ dày).