Chương 2 NGÔN NGỮ NHẬT BÁO CẦN THƠ
2.5. Màu sắc địa phương Nam Bộ
2.5.2. Từ ngữ địa phương
Xét một cách nghiêm ngặt, hệ thống từ ngữ địa phương là một tập hợp bao gồm nhiều tiểu loại khác nhau trong đó có cả từ ngữ biến thể ngữ âm (liên quan đến mặt hình thức của từ) cả những từ chỉ sản vật, đặc sản chỉ có ở Nam Bộ (liên quan đến những sở chỉ khác nhau) và cả những cách xưng hô mang tính đậm nhạt phổ biến. Nhưng ở đây, để tiện làm rõ màu sắc địa phương thông qua nhật báo Cần Thơ, luận văn tách riêng từng nhóm mặc dầu chúng tôi biết là sự phân loại này chỉ có ý nghĩa tương đối. Và nếu như một khảo sát nghiêm ngặt hơn, dứt khoát phải dựa vào ba đỉnh của tam giác ngữ nghĩa từ.
Với cách hình dung đó, tại tiểu mục này, luận văn chỉ tập trung khảo sát loại cùng một sự vật, một hiện tượng, mà được gọi bằng những tên khác nhau ở những vùng khác nhau: cá lóc- cá tràu/ cá quả/ cá chuối; bắp- ngô, bông- hoa, heo- lợn, khoai- sắn,…
So với các vùng khác, thì cách gọi tên này ít nhiều mang dấu ấn của một vùng đất. Hãy quan sát các ví dụ sau:
VD66:
Mỗi năm, đầu mùa lũ, ông Nguyễn Văn Tuấn, ở thị trấn Vĩnh Thạnh, huyện Vĩnh Thạnh đều thả nuôi cá lóc trong ao gần nhà và mua lưới bén giăng cá mồi ngoài tự nhiên làm thức ăn cho cá, vừa tiết kiệm tiền thức ăn cho cá, ông lại có thu nhập tăng thêm nhờ bán lượng cá mồi đánh bắt được...
Và sau mùa lũ, gia đình ông có một khoản thu nhập lớn khi thu hoạch cá lóc nuôi. Ông Nguyễn Văn Tuấn bộc bạch: “Năm nay, gia đình tôi thả nuôi 2.500 con cá lóc. Mấy ngày nay, gia đình tôi giăng trên 10 tay lưới (mỗi tay dài 80m) nhưng mỗi ngày chỉ được vài ký cá, chưa đủ làm mồi cho đàn cá lóc đang nuôi nói chi đem bán kiếm thêm thu nhập như mùa lũ trước. Tôi hy vọng tới đây nước lũ sẽ về nhiều hơn, đánh bắt nhiều cá để không phải tốn thêm tiền mua thức ăn cho cá lóc nuôi...”.
CT, 13-09-2012 VD67:
Ở xứ Cái Sơn, ông Hai Thảo được nhiều người biết đến bởi có nhiều kinh nghiệm trong canh tác màu. Dẫn chúng tôi tham quan hơn 1 mẫu đất trồng bắp nếp đang cho trái, hứa hẹn vụ mùa bội thu, ông Hai Thảo khoe: “Năm rồi tôi trúng đậm cây ớt sừng vàng Châu Phi và dưa hấu, trừ chi phí, bỏ túi trên 100 triệu đồng. Năm nay, thấy bà con ở đây trồng 2 loại cây này nhiều quá sợ bị dội hàng, tôi chuyển sang trồng cây bắp nếp, mè. Còn hơn nửa tháng nữa mới thu hoạch nhưng thương lái đã bỏ cọc, nếu suôn sẻ vụ mùa này kiếm lời cũng kha khá”. Canh tác hơn 1 ha đất trồng lúa, 5 công vườn nhưng nhiều năm nay, ông Hai Thảo vẫn trung thành với cây màu như ớt, dưa hấu, bí hồ lô, cà phổi,... Bởi theo ông Hai Thảo, trồng màu thời gian thu hoạch ngắn nhưng hiệu quả kinh tế cao.
CT, 09-04-2012 Tuy nhiên cũng cần thấy rằng hiện nay tiếng Việt có một sự tiếp xúc rất rộng rãi giữa các phương ngữ, điều này thể hiện sự di dân, sự xáo trộn về mặt
dân số. Và điều này được thể hiện trong ngôn ngữ. Theo quan sát của chúng tôi, trên báo Cần Thơ cũng có.
VD68:
Trước đây vợ chồng chị Ngọc - anh Khen sống ở phường Tân An, Ninh Kiều.
Năm 1987, cha mẹ chồng già yếu, người em út của anh Khen công tác ở xa nên anh chị dọn về gần nhà cha mẹ ruột của anh Khen (nay thuộc phường Phú Thứ, quận Cái Răng), để tiện việc chăm sóc cho bố mẹ. Năm đó, con trai đầu lòng của anh chị mới được 5 tuổi. Chị Ngọc nhớ lại: “Lúc bấy giờ kinh tế gia đình rất khó khăn, thu nhập chủ yếu là nhờ vào hoa lợi từ mấy công vườn tạp. Hàng ngày, tôi mang trái cây, rau cải ra chợ bán và phải mang con theo vì ông bà đã già yếu, ông xã tôi thì lo vườn tược, đi soi cá bống kiếm thêm thức ăn hàng ngày, hoàn cảnh túng thiếu vô cùng...”. Anh Khen tiếp lời vợ:
“Thời gian đó, cha tôi bệnh nặng nằm một chỗ, việc chăm sóc cha đều do vợ tôi gánh vác. Ai cũng khen vợ tôi phụng dưỡng cha mẹ chồng rất chu đáo cho đến khi cha mẹ tôi qua đời”. Dù cuộc sống chật vật, anh chị luôn động viên nhau cố gắng vượt qua khó khăn, cùng lo cải tạo vườn tược và chăn nuôi heo.
Trong quá trình cải tạo vườn tạp thành vườn cây ăn trái, chị tranh thủ trồng xen rau màu để “lấy ngắn nuôi dài”. Năm 1990 chị sinh thêm con gái, tuy việc chăm sóc, dạy dỗ 2 con nhỏ vất vả nhưng chị luôn đảm đang cùng chồng làm lụng, chăn nuôi để phát triển kinh tế gia đình. Năm 2006, khi kinh tế gia đình dần ổn định, vườn cây ăn trái cho thu nhập khoảng 40 triệu đồng/năm, chị bắt đầu tham gia công tác phụ nữ ở khu vực, được hội viên tín nhiệm bầu làm Chi hội trưởng. Trong công tác, chị Ngọc luôn gần gũi, quan tâm giúp đỡ hội viên, nhiều năm hoàn thành tốt nhiệm vụ và nhận được nhiều giấy khen.
CT,27-6-2011