Chương 2 NGÔN NGỮ NHẬT BÁO CẦN THƠ
2.5. Màu sắc địa phương Nam Bộ
2.5.3. Từ ngữ xưng hô
Bên cạnh hệ thống đại từ, kiểu như ổng, chỉ, bả, dưỡng, dĩ, có thể nói xu hướng xưng hô ngoại hóa là nét riêng của Nam Bộ. Nói cụ thể, người ta gọi dì, cậu phổ biến hơn cô, chú. Và có thể kể thêm cách xưng hô bằng thứ như anh Hai, chị Sáu, cậu Támcũng có thể coi là nét riêng. Theo quan sát của chúng tôi, các từ ngữ vừa nêu xuất hiện nhiều ở lời dẫn trực tiếp.
VD69:
Ở thời buổi đất đai ngày càng đắt đỏ, vậy mà ông Lý Văn Tăng (Tư Tăng), 70 tuổi, ở khu vực Thuận An 4, phường Thuận An, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, bán 5 công đất trị giá gần 350 triệu đồng để bắc cầu cho bà con đi lại thuận tiện. Tiền bán đất không đủ, ông lấy hết số tiền gởi tiết kiệm dưỡng già, rồi vay mượn thêm của người thân, không để chuyện tiền nong ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Không chỉ là người đi đầu trong công tác từ thiện - xã hội, lão nông Tư Tăng còn làm nhiều người cảm phục bởi nếp sống chuẩn mực, chan hòa, luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác.
CT, 20-12-2010 VD70:
Chúng tôi gặp Lê Huỳnh Nhất Sinh khi em đang ở Trung tâm học liệu Trường Đại học Cần Thơ. Sinh ra tại ấp Mỹ Thới 2, xã Mỹ Hòa, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, từ nhỏ Sinh đã thiếu sự chăm sóc của mẹ. Khi Sinh được 9 tuổi, mẹ của Sinh qua đời vì bệnh nặng. Sau đó 2 năm, ba Sinh bước thêm bước nữa. Từ một gia đình khá giả, gia đình của Sinh lâm vào cảnh nợ nần, 3 anh chị của Sinh không được học hành đến nơi đến chốn. Không khí gia đình càng không vui vẻ khi chị Hai, chị Tư của Sinh rời quê lên TP Hồ Chí Minh để làm thuê, làm mướn.
CT,16-11-2010
Có thể nói được là dựa vào khảo sát 100 lời dẫn trực tiếp, chúng tôi ghi nhận có đến hơn 70% phát ngôn có chứa màu sắc địa phương. Màu sắc địa phương này đa dạng và phong phú. Có khi đó chỉ là những từ nhấn nhá đệm lót, nghen, hông, hén.
VD71:
Vươn lên từ nghèo khó, vợ chồng ông Đào Phấn không chỉ được bà con lối xóm quý mến ở tính cần cù lao động mà còn là tấm gương vượt khó làm giàu.
“Ở xứ này, mấy chục năm trước, khó tay nào cắt lúa mướn qua Đào Phấn à nghen!” - ông Thạch Đông, thường nói thế mỗi khi nhắc đến ông bạn già của mình.
CT, 20-01-2012 Hoặc là cách nói có sức gợi tả rất lớn, chảng bành ki, rẻ như bèo,…
VD72:
Những người phu xẻ đá ở Hòn Sóc nói, vì không có ruộng đất nên họ phải đeo theo nghề đá, tiền công hiện nay rẻ như bèo. “Nhiều người thấy thợ xẻ đá cuối ngày làm việc lãnh tiền công 100.000 đồng- 200.000 đồng/ngày/người thì cho rằng nghề đá mau giàu.
CT,22-4-2011 Có khi đó là những từ ngữ đưa đẩy, mình ên, ta nói,…
VD73:
Biết vợ, con cần mình anh Tùng không cho phép mình dừng lại. Anh tiếp tục hành trình tìm hạnh phúc. Con rạch Bằng Lăng những năm 90 tôm cá cạn dần, ốc hến cũng ít, do bị ô nhiễm. Anh “lên bờ” học nghề đan bội, thúng, nia và nghề mộc. Chị Đức nói gọn lỏn nhưng không dấu vẻ tự hào:
“Không có đôi chân nhưng đôi tay ảnh nhanh lắm, nhìn là học được ngay.
Nghề đan với mộc này đâu có ai dạy, ảnh học lóm mình ên đó chớ. Đâu phải ai lành lặn cũng làm được như ảnh”.
CT, 30-7-2012
Còn những lời tường thuật, những lời miêu tả ( ngôn ngữ phóng sự, ghi nhanh của người tạo lập văn bản) thì tần suất xuất hiện của chúng rất thấp.
Quan sát phóng sự dài 1200 âm tiết, chúng tôi ghi nhận chỉ 3, 4 từ màu sắc địa phương. Tuy nhiên, sức gợi tả, sức biểu cảm của chúng là hết sức lớn.
VD74:
Những người thợ xẻ đá ở Hòn Sóc luôn miệng than, đổ mồ hôi, đổ máu làm việc cực khổ, công xá rẻ mạt nên chẳng tích lũy được. Nhưng ông Nguyễn Quốc Đoàn nói, một ngày thợ đá thu nhập 100.000 đồng- 200.000 đồng mà không tích cóp, dành dụm được tiền là vô lý. “Lâu nay ở các bãi đá vẫn tồn tại dai dẳng nhiều tệ nạn, tình hình trật tự trị an rất phức tạp. Chồng suốt ngày quần quật ngoài bãi đá kiếm tiền, chiều về nhậu nhẹt say sưa, trong khi vợ ở nhà tụ tập đánh bài ăn tiền... Hầu như tháng nào công an xã cũng xử lý vài vụ cờ bạc, đánh ghen, nhậu say gây rối. Cứ như vậy thì làm sao mà khá lên cho được”, ông Đoàn nói.
Theo Sở Xây dựng tỉnh Kiên Giang, hiện nay quanh núi Hòn Sóc có đến 10 doanh nghiệp được cấp phép khai thác đá, trữ lượng cho phép khai thác lên đến hơn 25.000.000m3. Đó là chưa kể hơn chục bãi đá khai thác tự phát của cư dân địa phương. Bà Võ Ngọc Thứ, Giám đốc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Kiên Giang, cho biết dù khai thác đá là một nghề hết sức nguy hiểm nhưng tình trạng bảo hộ lao động ở các mỏ đá rất kém. “Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có hơn 3.000 lao động làm việc ở các mỏ đá, nhưng 10 người làm nghề khai thác đá thì hết 9 người không thèm trang bị bảo hộ lao động, dù các cơ quan hữu trách thường đến kiểm tra, nhắc nhở”, bà Thứ nói. Những người thợ đá ở Hòn Sóc, dụng cụ hành nghề chỉ là vài chiếc đục lớn nhỏ bằng thép và chiếc búa, nón vải, chân trần, lâu lâu mới thấy một người mang được đôi găng tay bảo hộ lao động. Mỗi nhát đục chạm vào phiến đá, vụn đá bắn ra xung quanh rào rào, nhưng chẳng thấy phu đá nào mang kính bảo vệ mắt.
“Ở đây, chuyện đập búa vào tay, đá vụn văng vào mắt xảy ra như cơm bữa, riết rồi thợ nào cũng quen”, ông Châu Kha nói. Theo ông Nguyễn Quốc Đoàn, từ trước đến nay khi xảy ra tai nạn nghiêm trọng, phu đá bị thương tật nặng hoặc mạng vong, nếu các chủ mỏ đá, bãi đá có thông báo thì UBND xã mới biết. “Nếu chủ mỏ ém nhẹm tai nạn để tự thỏa thuận bồi thường với nạn nhân thì UBND xã và các cơ quan hữu trách cũng mù tịt. Những tai nạn nhỏ như đá bắn vào mắt, đập búa giập tay, chân, đá lăn đè gây thương tích xảy ra hà rằm... nhưng UBND xã vô phương thống kê vì không ai báo cáo”, ông Đoàn nói. Ông Nguyễn Thiện Tấn, Thanh tra sở LĐ-TB&XH Kiên Giang, cho biết khi kiểm tra an toàn lao động thì thợ đá nói trang bị bảo hộ lao động cồng kềnh, vướng víu và nóng bức, làm việc giảm năng suất nên họ không sử dụng; còn chủ mỏ đá thì trả lời lửng lơ: có trang bị bảo hộ nhưng phu đá không chịu sử dụng, rốt cuộc các cơ quan hữu trách chẳng phạt vạ được ai.