Thương lượng kiểu nguyên tắc

Một phần của tài liệu Kỹ năng giao tiếp và thương lượng trong kinh doanh Thái Trí Dũng (Trang 158 - 163)

Chương 6: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG LƯỢNG

IV. CÁC KIỂU THƯƠNG LƯỢNG

3. Thương lượng kiểu nguyên tắc

Kiểu thương lượng này do trung tâm kế hoạch nghiên cứu thương lượng đại học Harvard đề ra cho nên còn gọi là “thuật thương lượng Harvard". Loại thương lượng này có 4 đặc điểm:

a. Thương lượng kiểu nguyên tắc chủ trương tách con người ra khỏi vấn đề

Trong khi thương lượng, ở mỗi chúng ta bao giờ cũng nảy sinh những cảm xúc tình cảm khác nhau, và chính những cảm xúc này có thể làm cho mỗi bên nhìn nhận về nhau một cách méo mó, từ đó nhận thức vấn đề cũng sai lệch đi. Chính điều này có thể làm cho mỗi bên bám lấy lập trường của mình mà không chịu nhượng bộ. Vì vậy trong khi thượng lượng hai bên cần phải tách con người ra khỏi vấn đề để sát cánh bên nhau tấn công vào vấn đề phải giải quyết chứ không phải tấn công nhau.

b. Trong thương lượng kiểu nguyên tắc hai bên cần tập trung vào lợi ích chứ không cố giữ lấy lập trường

Các chuyên gia thương lượng cần phải tránh việc tập trung chú ý vào lập trường các bên đưa ra trong khi mục đích của cuộc đàm phán là thỏa mãn các lợi ích của họ nằm sau các lập trường đó. Nếu bạn cứ bám vào lập trường thì bạn sẽ không nhìn thấy lợi ích thực sự của bạn.

c. Trong thương lượng bạn cần đưa ra các phương án khác nhau để lựa chọn thay thế

Khi thương lượng thường bạn dễ bị sức ép tâm lý làm cho bạn căn thẳng mà mất sáng suốt, vì thế việc đưa ra phương án tối ưu sẽ trở nên hết sức khó khăn. Bạn có thể thoát khỏi trạng thái căng thẳng bằng cách dành một khoảng thời gian tìm tòi những giải pháp có thể thỏa mãn những lợi ích chung, hòa hợp một cách sáng tạo các lợi ích khác biệt.

d. Kết quả của sự hỏa thuận trong thương lượng kiểu nguyên tắc cần dựa trên những tiêu chuẩn khách quan nào đó

Nếu trong một cuộc thương lượng không cân sức, đối phương có thể bắt ép bạn phải thực hiện những thỏa thuận có lợi cho họ. Tuy nhiên bạn có thể chống trả lại sức ép của họ bằng cách đòi hỏi người ta đưa ra những tiêu chuẩn khách quan. Bởi vì bất cứ thỏa thuận nào cũng phải phản ánh một tiêu chuẩn công bằng nào đó độc lập với ý muốn chủ quan của cả hai bên. Ví dụ, như trong việc chia chiếc bánh ở trên, tiêu chuẩn khách quan là “đứa này cắt thì đứa kia chọn". Bằng cách thương lượng về các tiêu chuẩn khách quan hơn là về điều mà các bên muốn hay không muốn, sẽ không có bên nào chịu thua thiệt.

Mỗi đặc điểm trên giải quyết một thành phần cơ bản của cách thương lượng và trả lời bạn nên làm gì đối với nó.

Như vậy khác với đàm phán kiểu mềm, đàm phán kiểu nguyên tắc yêu cầu đôi bên phải tôn trọng nhu cầu cơ bản của nhau, tìm điểm dung hòa về lợi ích hai bên.

Khác với đàm phán kiểu cứng đàm phán nguyên tắc nhấn mạnh tới lợi ích hai bên, nhưng không phải đưa ra lập trường cứng nhắc, mà có các phương án thay thế nếu gặp phải thế găng. Ví dụ: chuyện Ai Cập và Israel về bán đảo Sinai của Ai Cập.

Bảng so sánh giữa 3 kiểu thương lượng Thương lượng

kiểu mềm

Thương lượng

kiểu cứng Thương lượng kiểu nguyên tắc Đối tác Coi đối tác như bạn

Coi đối tác như địch thủ

Coi đối tác như những cộng sự

Mục tiêu

Đạt thoả thuận, giữa mối quan hệ

Giành được thắng lợi bằng mọi giá

Giải quyết vấn đề hiệu quả và thân thiện

Xuất phát Nhượng bộ để giữ Bắt ép đối tác Tách con người khỏi

điểm quan hệ nhượng bộ vấn đề Chủ

trương

Với việc và người đều ôn hoà

Với việc và người đều cứng rắn

Đối với người thì ôn hoà, với việc thì cứng

Lập trường

Dễ thay đổi Kiên trì giữ lập trường

Chú ý tới lợi ích chứ không phải lập trường

Phương pháp

Đề xuất kiến nghị Uy hiếp đối tác Cùng tìm kiếm lợi ích chung

Phương án

Tìm phương án đối tác có thể tiếp thu được

Tìm phương án có lợi cho mình

Tìm nhiều phương án để hai bên lựa chọn

Biểu hiện

Rất tránh xung đột Tranh đua sức mạnh ý chí

Căn cứ tiêu chuẩn khách quan để đạt thoả thuận

Kết quả

Khuất phục sức ép của đối tác

Tăng sức ép khiến đối tác khuất phục

Khuất phục nguyên tắc chứ không khuất phục trước sức ép

Câu hỏi ôn tập

6.1. Thương lượng là gì? Tại sao người ta lại phải thương lượng với nhau?

6.2. Phân tích các đặc điểm của thương lượng trong kinh doanh?

6.3. Thương lượng kiểu mềm và thương lượng kiểu cứng có những tác hại như thế nào?

6.4. Phân tích các đặc điểm của thương lượng kiểu nguyên tắc? Nó khác với hai loại thương lượng trên ở nhưng điểm cơ bản nào?

Bài tập

Bạn hãy đọc một tờ báo hoặc xem chương trình thời sự trên ti vi, và đưa 5 ví dụ về những cuộc thương lượng. Những cuộc thương lượng đó đã đi đến thỏa thuận như thế nào? Những người thương lượng đã áp dụng kiểu đàm phán nào?

Tình huống thảo luận “chiếc xe ông Tèo".

Chiếc xe hơi Hon da 89 hơn của ông Tèo bị một cây to đổ và phá hỏng tan tành, khi ông đỗ ở bãi để xe. Chiếc xe được bảo hiểm ở Bảo Việt, nhưng số tiền bao nhiêu, thì ông Tèo phải thương lượng với Bảo Việt. Bạn hãy theo dõi cuộc thương lượng giữa ông Tèo và Bảo Việt.

- Nhân viên Bảo Việt: Chúng tôi đã xem xét vụ của ông và quyết định bồi thường cho ông. Ông có quyền được thanh toán 250 triệu.

- Ông Tèo: Tôi hiểu. Nhưng các ông tính thế nào ra con số ấy?

- Nhân viên Bảo Việt: Đánh giá giá trị chiếc xe theo quyết định của chúng tôi.

- Ông Tèo: Tôi hiểu, nhưng các ông dùng tiêu chuẩn nào để xác định giá như vậy? Các ông có biết chỗ nào có thể mua được chiếc xe như vậy với giá đó hay không?

- Nhân viên Bảo Việt: Thế ông muốn bao nhiêu?

- Ông Tèo: Tôi chỉ muốn nhận được đúng mức thà tôi có thể được bảo hiểm. Tôi biết rằng có một chiếc xe secondhand giống như xe tôi, người ta ra giá 300 triệu cộng với thuế trước bạ và chi phí khác giá lên đến 320 triệu.

- Nhân viên Bảo Việt: Những 320 triệu cơ à, thế là quá nhiều.

- Ông Tèo: Tôi không muốn đòi 320 triệu, hay 200 triệu hay 400 triệu mà chỉ là một khoản bồi thường xứng đáng thôi. Tôi phải được đền bù số tiền đủ để mua được chiếc xe như của tôi chứ, các ông có nghĩ thế không?

- NVBH: Thôi được, tôi sẽ thanh toán cho ông 300 triệu. Đấy là mức cao nhất đấy.

- Ông Tèo: Các ông cho số tiền như vậy là thế nào?

- Nhân viên Bảo Việt: Đấy là mức tiền cao nhất mà ông được lãnh, lãnh hay không là tùy ông. Đó là quyết định của công ty.

- Ông Tèo: Tôi cũng chẳng biết là 300 triệu là có hợp lý hay không.

Nhưng nếu ông không đưa ra các tiêu chuẩn khách quan để giải thích tại sao tôi được lãnh số tiền đó, thì chắc tôi phải đưa vấn đề này hỏi ở toà án. Tại sao chúng ta không xem xét lại vấn đề một lần nữa rồi hãy thương lượng.

Tám giờ sáng ngày thứ hai chúng ta lại gặp nhau lần nữa, có tiện cho ông không?

Thứ hai, hai bên gặp nhau.

- Nhân viên Bảo Việt: Này ông Tèo, chúng tôi có tờ quảng cáo bán chiếc xe Honda 89 như của ông với giá 320 triệu đây.

- Ông Tèo: Quảng cáo nói xe đã chạy bao nhiêu?

- Nhân viên Bảo Việt: 50 ngàn cây số.

- Ông Tèo: Xe tôi mới chạy có 25 ngàn cây số thôi. Thế theo sách của các ông thì xe của tôi tăng thêm bao nhiêu?

- Nhân viên Bảo Việt: Để tính xem nào,…. tăng thêm 5 triệu.

- Ông Tèo: Như vậy, nếu lấy giá 320 triệu làm cơ sở thì xe tôi sẽ có giá là 325 triệu. Thế chiếc xe nói trong quảng cáo có radio casette không?

- Nhân viên Bảo Việt: Không.

- Ông Tèo: Thế nếu có radio casette thì được bao nhiêu nữa thưa ông?

- Nhân viên Bảo Việt: 1,5 triệu.

- Ông Tèo: Thế tất cả là bao nhiêu thưa ông?

- Nhân viên Bảo Việt: 326,5 triệu.

Và sau đó ông Tèo ra về với số tiền là 326,5 triệu.

Câu hỏi

Bạn hãy phân tích xem người nào áp dụng kiểu thương lượng nào? Tại sao ông Tèo lại thắng trong cuộc thương lượng này?

Một phần của tài liệu Kỹ năng giao tiếp và thương lượng trong kinh doanh Thái Trí Dũng (Trang 158 - 163)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(247 trang)
w