Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
1.2. Phương pháp tiếp cận vấn đề phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
1.2.1. Các phương pháp tiếp cận vấn đề phát triển văn hóa trong thế kỷ XX – những bài học kinh nghiệm
1.2.1.1. Các phương pháp tiếp cận vấn đề phát triển văn hóa trong thế kỷ XX
C.Mác đã từng khẳng định: Khi lịch sử đặt ra vấn đề gì, thì lịch sử cũng chuẩn bị những khả năng giải quyết vấn đề ấy. Điều này như một chỉ dẫn quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa được đặt ra trong lịch sử phát triển của nhân loại. Việt Nam đang tận dụng những ưu thế mà thời đại mang lại, phát triển theo con đường rút ngắn. Do vậy, nghiên cứu các phương pháp tiếp cận vấn đề phát triển văn hóa khác nhau trong lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nhận thức đúng đắn để phát triển nền văn hóa dân tộc mình.
Các phương pháp tiếp cận vấn đề phát triển văn hóa dưới đây xuất phát từ việc xem xét ba mô hình phát triển kinh tế - văn hóa tiêu biểu của thế kỷ XX. Các mô hình này kế tiếp nhau xuất hiện như một tất yếu trong tiến trình phát triển của nhân loại, tạo tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo.
a) Phát triển văn hóa vì lợi ích kinh tế - lợi nhuận ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, đã có một giai đoạn phát triển dựa trên động lực làm giàu. Sự phát triển các lĩnh vực giáo dục, khoa học - công nghệ, văn học và nghệ thuật, đào tạo nhân lực, tâm lý, lối
sống... đều hướng vào mục tiêu làm giàu, trong đó có một số ít người có năng lực tổ chức, kinh doanh trở thành ông chủ. Bản thân văn hóa cũng trở thành một ngành công nghiệp đạt lợi nhuận cao từ cuối thế kỷ XX.
Đối với các đảng cầm quyền trong các nước tư bản thì văn hóa phải phục vụ lợi ích của bộ phận giàu nhất. Từ phương pháp tiếp cận "Phát triển văn hóa vì lợi nhuận" trong chủ nghĩa tư bản, có thể rút ra những nội dung mang tính quy luật sau đây:
- Phương pháp này xuất hiện trong hình thái kinh tế thị trường dựa trên cơ sở xã hội hóa lao động và sản xuất không ngừng được hiện đại hóa và được thúc đẩy bởi quy luật cạnh tranh.
- Trong điều kiện ấy đã xuất hiện mâu thuẫn: lao động xã hội tạo ra giàu có, nhưng chiếm hữu và hưởng thụ lại giành cho một số ít người. Vì vậy quá trình phát triển luôn xuất hiện những cuộc khủng hoảng chu kỳ về kinh tế và xã hội, đòi hỏi phải tính đến những yêu cầu xã hội và văn hóa mới vượt qua được. Thành tựu văn hóa quan trọng nhất trong quá trình ấy là sự ra đời Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự, có tác dụng nhất định trong điều tiết các mối quan hệ kinh tế, xã hội và văn hóa.
- Sự phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã liên tục tạo ra những tiền đề cho sự phát triển văn hóa, xã hội và sự tự do của mỗi cá nhân. Các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, những thành tựu về văn học nghệ thuật liên tiếp ra đời là dựa trên những tiền đề ấy.
- Vào cuối thế kỷ XX, sự tương tác giữa kinh tế với văn hóa đã đạt đến mức phát triển về chất lượng, thể hiện ở hai sự kiện bước ngoặt: sự hình thành và phát triển nhanh của kinh tế tri thức thay thế kinh tế công nghiệp đã phát triển 300 năm; và từ nay, sự phát triển văn hóa, trí thức có vai trò quyết định trước tiên đối với phát triển kinh tế, xã hội và chính trị, thay thế quá trình kinh tế, chính trị quyết định sự phát triển văn hóa trước đây.
- Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển của thế giới bước vào thời kỳ quá độ lâu dài từ xã hội tư bản lên xã hội hậu tư bản với nhiều mâu thuẫn và nghịch lý. Nét mới và hấp dẫn ở đây là: diễn biến thực tiễn lại đang xác minh tính đúng đắn một số dự báo của C.Mác: Một là, chủ nghĩa tư bản sẽ đi tới "sự phủ định của phủ định", sự phủ định này thông qua các công ty cổ phần sẽ xác lập sở hữu xã hội (chứ không phải là sở hữu nhà nước) và sở hữu cá nhân (chứ không phải là sở hữu tư nhân); hai là, sự phát triển tự
do và toàn diện của mỗi cá nhân; ba là, xã hội mới là "xã hội mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của mọi người".
Ngày nay, tác động của văn hóa đối với xã hội lớn đến mức đang làm thay đổi cách suy nghĩ và lối sống của những người giàu có nhất. Họ đã giành một phần tài sản và thời gian cho công việc từ thiện bằng nhiều hình thức. Quỹ từ thiện của Bill Gates (người giàu nhất nước Mỹ) có vốn cung ứng 26 tỷ USD. Trả lời câu hỏi: "Sao không để lại cho con?". Ông trả lời: "Việc làm từ thiện sẽ cho con khái niệm tốt". Trong vài thập kỷ gần đây, ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã có Luật kế thừa tài sản, chỉ nhằm tạo điều kiện cần thiết cho con cái phấn đấu, trưởng thành, chứ không vì giàu có mà biến con cái thành những kẻ ăn bám, như con cái tầng lớp quý tộc phong kiến trước đây.
- Tính tự phát thích nghi của chủ nghĩa tư bản với những đòi hỏi của quy luật kinh tế thị trường và văn hóa được thể hiện một cách phổ biến ở quá trình cổ phần hóa trong các doanh nghiệp tư nhân. Theo các chuyên gia kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa, công ty cổ phần ở các nước này đã mở rộng, những người lao động trong doanh nghiệp và một bộ phận dân cư ngoài doanh nghiệp đó trở thành những cổ đông (như ở nước Úc, tỷ lệ dân cư là cổ đông gần 40%; ở các nước Bắc Âu 60-70%).
Ngoài tiền lương họ còn có thu nhập từ cổ tức (lợi nhuận được chia theo tỷ lệ cổ phiếu). Nhờ đó, những người lao động và dân cư có điều kiện nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa, sự phát triển của cá nhân và nâng cao dân trí.
Nhìn tổng quát, phương pháp tiếp cận văn hóa của chủ nghĩa tư bản có những điều cốt lõi sau:
- Phát triển văn hóa và phát triển kinh tế gắn liền nhau trong một hệ thống với mối quan hệ nhân - quả trong phát triển.
- Mối quan hệ ấy chỉ hình thành trong hình thái kinh tế thị trường, lấy lợi nhuận làm động lực và mục tiêu.
- Mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa thay đổi theo giai đoạn phát triển kinh tế thị trường. Ở giai đoạn thấp, văn hóa (gồm khoa học - công nghệ, cải cách tổ chức, quản lý...) là điều kiện hàng đầu để phát triển kinh tế thông qua cạnh tranh trên thị trường. Nhìn chung đây là giai đoạn kinh tế công nghiệp. ở giai đoạn phát triển cao của kinh tế thị trường - giai đoạn kinh tế tri thức, thì văn hóa vừa là điều kiện quyết định phát triển kinh tế
vừa là mục tiêu trực tiếp của phát triển kinh tế (một cách tự phát ngoài ý muốn của chủ nghĩa tư bản) biểu hiện ở: sự hình thành đội ngũ lao động tri thức. Với vai trò vừa là người lao động, vừa là cổ đông của doanh nghiệp trong một môi trường có khả năng phát triển của mỗi cá nhân. Xu hướng chung mà hiện giờ có thể bắt đầu nhận thức được là: Cùng với tiến trình phát triển kinh tế tri thức thì mối quan hệ giữa kinh tế với văn hóa sẽ thay đổi về chất: nền văn hóa mới phát sinh từ kinh tế tri thức trong xã hội mới sẽ thay thế nền văn hóa phát sinh từ kinh tế công nghiệp mấy trăm năm qua trong chủ nghĩa tư bản.
- Văn hóa phương Tây với những ưu điểm và nhược điểm có tính chất lịch sử đã trở thành những giá trị cho sự phát triển của nhân loại trong một giai đoạn. ảnh hưởng của nó đang mở rộng trong không gian toàn cầu hóa, tạo cơ hội cho sự phân tích, lựa chọn cho các nước.
Để tiếp cận đúng vấn đề Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020, cần phải tham khảo, lựa chọn, học hỏi những giá trị tích cực của văn hóa ấy. Từ khi mở cửa và hội nhập, Việt Nam ngày càng tiếp cận nhiều nền văn hóa của các dân tộc thông qua kênh chính là thương mại, đầu tư và giáo dục, đào tạo. Các quan hệ song phương lại đòi hỏi chúng ta tìm hiểu nền văn hóa của các đối tác cụ thể, không thể nói chung chung
"Việt Nam là bạn" hoặc chỉ thuần túy coi trọng quan hệ chính trị, kinh tế, tách rời văn hóa. Hơn nữa văn hóa đang được nhìn nhận như là nguồn lực tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia, là sức mạnh nằm trong cạnh tranh và hợp tác quốc tế. Vì vậy, để hiểu rõ các đối tác quốc tế chúng ta không thể không quan tâm đến văn hóa của họ.
b) Phát triển văn hóa vì bảo vệ hệ tư tưởng ở các nước xã hội chủ nghĩa thế kỷ XX
Vào nửa đầu thế kỷ XX, hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa ra đời ở châu Âu và châu Á. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối của các Đảng Cộng sản cầm quyền cũng đem lại một cách tiếp cận mới về văn hóa: Phát triển văn hóa hoàn toàn vì bảo vệ hệ tư tưởng Mác-Lênin (theo cách hiểu của họ) và thực hiện đường lối chính trị của Đảng Cộng sản trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn thế kỷ XX cho thấy, nền văn hóa ấy không có mấy sức sống. Nó đã kết thúc cùng với chủ nghĩa xã hội vào cuối thế kỷ XX.
Nhưng cho đến nay, một số nước xã hội chủ nghĩa chuyển sang phát triển
theo hướng tư bản chủ nghĩa, một số nước thì cầm cự dựa trên chủ nghĩa dân tộc, một số chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội theo nhận thức mới, nhưng tất cả vẫn còn lúng túng ở phương pháp tiếp cận văn hóa ở bối cảnh đầu thế kỷ XXI.
Vì vậy, rất cần phân tích sâu sắc cách tiếp cận văn hóa của các nước xã hội chủ nghĩa thế kỷ XX, mà ảnh hưởng của cách tiếp cận này đối với nước ta rất sâu sắc cho đến ngày nay sau 25 năm đổi mới.
- Một vài đặc điểm của phương pháp tiếp cận vấn đề phát triển văn hóa ở các nước xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XX
Trước hết là về tư duy lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Các Đảng Cộng sản cầm quyền đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở lý luận cho đường lối, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư duy lý luận là biểu hiện cụ thể cách tiếp cận văn hóa của Đảng cầm quyền. Đó là văn hóa chính trị.
Về tư duy kinh tế, trong việc xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, các Đảng Cộng sản đều thống nhất cơ sở kinh tế ấy là chế độ công hữu, nhằm xóa bỏ bóc lột và bất công mà chế độ tư hữu gây ra. Họ hy vọng làm như vậy sẽ đem lại công bằng, tự do cho toàn thể nhân dân.
Thực tiễn đã không có câu trả lời như vậy. Quá trình nhà nước hóa và kế hoạch hóa sản xuất và tiêu dùng đã không đưa lại sự giàu có để "làm theo năng lực hưởng theo lao động" mà lại hình thành chủ nghĩa bình quân cho số đông và đặc quyền đặc lợi cho số ít quan chức. Mục tiêu công bằng, dân chủ được thay thế bằng "cơ chế xin - cho" một cách tự phát trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị. Thể chế kinh tế chính trị ấy chỉ có hiệu quả một thời gian đầu, giải quyết được các nhu cầu tối thiểu theo cơ chế bao cấp bình quân. Nhưng tình trạng đó sớm kết thúc khi nhu cầu con người và dân số tăng lên.
Bên cạnh đó, chế độ bao cấp không chỉ về đời sống vật chất mà cả về đời sống tinh thần và tư tưởng, đã sản sinh những hậu quả đi ngược với mục tiêu chủ nghĩa xã hội chân chính về mấy mặt chủ yếu: Không dựa vào xã hội mà dựa vào bộ máy, không dựa vào dân mà dựa vào quan chức, không dựa vào thành tựu khoa học mà dựa vào tập thể quyền lực (trong hoạch định đường lối, chính sách, trong bầu cử các cấp...) làm cho bộ máy quan liêu hóa, ngày càng xa dân, xa thực tiễn, xa rời những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Về mặt xã hội, phương pháp tiếp cận vấn đề phát triển văn hóa này không chấp nhận vai trò cá nhân với tính chủ động, sáng tạo cần có trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những người lãnh đạo đánh mất thói quen lắng nghe ý kiến người khác và có thái độ loại bỏ những người có ý kiến khác (về mặt tổ chức). Các nước kém phát triển thì coi lực lượng xã hội như một công cụ thực hiện mục đích chính trị chứ không phải là động lực và mục tiêu của phát triển.
- Nguồn gốc phát sinh những sai lầm trong phương pháp tiếp cận vấn đề phát triển văn hóa vì bảo vệ hệ tư tưởng ở các nước xã hội chủ nghĩa
Theo quan niệm duy vật lịch sử, thì sự phát triển chủ nghĩa tư bản mấy trăm năm và "chủ nghĩa xã hội nhà nước", 70 năm trong thế kỷ XX đều là quá trình lịch sử - tự nhiên. Đó là quan niệm để xem xét vấn đề và rút ra kết luận bổ ích cho việc hình thành phương pháp tiếp cận đúng.
Phương pháp tiếp cận "Phát triển văn hóa vì yêu cầu bảo vệ hệ tư tưởng" một cách phiến diện có nguồn gốc khách quan và chủ quan.
Về mặt khách quan, các nước xã hội chủ nghĩa ra đời trong thế kỷ XX đều từ những nước kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Ngay nước Nga là nước tư bản trung bình, mà 82,4% dân số là nông dân. Theo nguyên lý biện chứng thì "cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng chính trị và văn hóa". Một nước nông nghiệp lạc hậu khó có nhận thức khoa học về con đường phát triển trong thời đại tư bản chủ nghĩa, mà rất dễ rơi vào mong muốn chủ quan duy ý chí một cách tập thể, rơi vào nguy cơ chính trị hóa mọi hoạt động xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, vào đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản rơi vào khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, xã hội, các khuyết tật của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ rõ ràng. Tình hình đó làm cho những người cách mạng ở các nước lạc hậu không nhận thức được những tiền đề xây dựng chủ nghĩa xã hội mà chủ nghĩa tư bản tạo ra. Đặc biệt là trước tình hình đó, những người cộng sản nhận thức khá sâu sắc những luận điểm của Mác ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản (trong thế kỷ XIX về đấu tranh giai cấp, về xóa bỏ chế độ tư hữu, về chuyên chính vô sản...), nhưng lại không nhận thức được lý luận phát triển của C.Mác về các quy luật về kinh tế chính trị, về vai trò của khoa học - công nghệ và trí thức trong quá trình đi đến
sự phủ định đối với chủ nghĩa tư bản, ra đời chủ nghĩa xã hội từ những tiền đề do tư bản chủ nghĩa tạo ra.
Về mặt chủ quan, số đông những người cộng sản các đảng cầm quyền ở các nước lạc hậu có tấm lòng yêu nước nồng nàn, nhưng trình độ văn hóa thấp. Nền văn hóa tiểu nông là môi trường văn hóa trong đó họ sinh ra và trưởng thành. Đặc biệt họ không nắm vững phép biện chứng - vốn là "linh hồn sống của chủ nghĩa Mác", nên rơi vào sao chép, giáo điều. Khi đã cầm quyền, những nhược điểm này càng tác động bằng quyền lực ở phạm vi quốc gia. Hầu như không có Đảng Cộng sản cầm quyền nào không rơi vào chủ quan duy ý chí, mà Lênin gọi là "bệnh ấu trĩ tả khuynh", còn sau mỗi thắng lợi thì bệnh này biến thành "bệnh kiêu ngạo cộng sản" hay bệnh thành tích. Hai căn bệnh này làm cho Đảng biến chất, từ chỗ vì sự nghiệp chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của dân biến thành vì lợi ích của một nhóm người, thậm chí của một người. Nó là nguyên nhân và cũng là kết quả của phương pháp tiếp cận văn hóa duy chính trị và hệ tư tưởng. Nó là nguyên nhân sâu xa của sự kiện sụp đổ chủ nghĩa xã hội cuối thế kỷ XX.
Lịch sử thăng trầm của chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ tầm quan trọng của phương pháp tiếp cận văn hóa trong xây dựng chủ nghĩa xã hội để hình thành nền văn hóa chính trị một cách khoa học - một tiền đề quyết định thành công của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Ở các nước lạc hậu, việc khắc phục "bệnh ấu trĩ tả khuynh" không dễ dàng và không nhanh được đối với Đảng Cộng sản. Chỉ cần nhìn vào lịch sử Đảng Cộng sản Liên bang Nga với nhiều thành tựu trong giành chính quyền, nhưng khi Lênin đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP) nhằm chuyển sang kinh tế thị trường nhiều thành phần và giao lưu với chủ nghĩa tư bản thì gặp nhiều khó khăn ngay từ Bộ Chính trị. Lênin đã phải thuyết phục khoảng 30 lần mới thông qua được. Cùng lúc đó 20% đảng viên Đảng Cộng sản Liên bang Nga đã bỏ thẻ đảng để phản đối NEP (theo Ziuganốp, Chủ tịch Đảng Cộng sản Liên bang Nga hiện nay).
"Bệnh ấu trĩ tả khuynh" trong Đảng không chỉ cản trở việc chuyển sang kinh tế thị trường (sau khi Lênin mất mấy năm, Staline cũng từ bỏ NEP) mà còn cản trở lâu dài việc sử dụng khoa học - công nghệ hiện đại vì dân sinh, việc sử dụng trí thức trong Đảng và ngoài Đảng, cản trở việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân và phát huy vai trò làm chủ của