Bối cảnh kinh tế - xã hội tác động đến quá trình xây dựng

Một phần của tài liệu đề tài phát triển văn hoá việt nam giai đoạn 2011-2020 (Trang 85 - 90)

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU

2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội tác động đến quá trình xây dựng

Quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam giai đoạn 1986 - 2020 diễn ra trong một bối cảnh đầy biến động của tình hình quốc tế và trong nước. Những biến động này đã tác động sâu sắc và toàn diện đến đời sống văn hóa của nhân dân, vừa mang lại những thuận lợi, vừa mang lại những thách thức to lớn.

2.1.1. V tình hình quc tế 2.1.1.1.. Về chính trị - xã hội

Từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, trên thế giới đã có những biến đổi to lớn. Trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa kinh tế, quá trình cạnh tranh quốc tế diễn ra gay gắt, đặc biệt là âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc ngày càng diễn ra quyết liệt, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản có nhiều diễn biến phức tạp. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Các nước tư bản đã có sự điều chỉnh, sử dụng được những thành tự khoa học và công nghệ hiện đại, khai thác lợi thế trong cạnh tranh với các nước xã hội chủ nghĩa để vượt qua được thách thức, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để thoát khỏi khủng hoảng, Trung Quốc đã tiến hành cải cách mở cửa và từng bước vượt qua khó khăn, dần dần đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tập trung tiến hành cải tổ, cải cách. Nhưng do sai lầm về đường lối và sự suy thoái về tư tưởng chính trị của những người đứng đầu nên dẫn đến sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.

Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Cục diện chính trị thế giới đã chuyển từ thế đối đầu sang đối thoại và hình thành một trật tự thế giới mới đan xen nhiều mâu thuẫn và xung đột mới.

Bối cảnh chính trị xã hội của thế giới mặc dù diễn ra rất đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung, các quốc gia, các dân tộc vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển. Lợi ích của quốc gia, dân tộc đang nổi lên như một

ưu tiên hàng đầu trong việc giải quyết các mối quan hệ quốc tế. Xu thế hòa bình, ổn định và phát triển vẫn là xu thế chung của nhân loại tiến bộ.

Từ cuối những năm 90 đến nay, nhiều cuộc hội thảo quốc tế về chủ đề

“Bao dung văn hóa và phát triển”, “Hòa bình và phát triển” đã được tổ chức ở nhiều nơi trên thế giới. Hòa bình đồng nghĩa với phát triển, không có ổn định, hòa bình thì không có phát triển. Kinh nghiệm đổi mới của Việt Nam trong 25 năm vừa qua đã chứng minh cho điều đó. Vì vậy, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển là yêu cầu khách quan và là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của đất nước, trong đó có sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.

2.1.1.2. Tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ

Đúng như C. Mác dự báo, khoa học đã và đang biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Trong thời đại hiện nay đang có sự chuyển đổi mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ theo hướng nhân văn và sinh thái. Đây là một đặc điểm lớn có tác động sâu sắc đến quá trình cấu trúc lại nền sản xuất của xã hội hiện nay. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trước đây hướng tới phụ vụ cho nền “kinh tế khai thác”, khai thác sức lao động và khai thác tài nguyên thiên nhiên dựa trên công nghệ “thấp và bẩn” (cho năng xuất lao động thấp và gây ra ô nhiễm môi trường). Sự phát triển khoa học công nghệ gần đây tập trung vào bốn trụ cột lớn là khoa học về sự sống, khoa học vật liệu mới, khoa học về năng lượng và khoa học quản lý (trong đó có công nghệ thông tin là cơ sở) đã góp phần hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin1. Quá trình chuyển đổi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ này là cơ sở để cấu trúc lại quá trình công nghiệp hóa và phát triển nền kinh tế thế giới theo hướng nhân văn và sinh thái.

Sự phát triển của những thành tựu khoa học và công nghệ này đã tác động mạnh mẽ vào đời sống văn hóa của các quốc gia, các dân tộc, đặc biệt là thông qua hệ thống viễn thông và hệ thống thông tin đại chúng toàn cầu, thông qua xuất nhập khẩu sản phẩm văn hóa, thông qua các phương tiện vật chất kỹ thuật để sáng tạo, truyền dẫn, trình diễn và quảng bá văn

1 Xem thêm Nguyễn Đức Bình: Những đặc điểm lớn của thế giới đương đại, Nxb CTQG HN.2007, tr.11-57.

hóa... Những thành tựu khoa học kỹ thuật không thay thế được con người nhưng nó lại là yếu tố góp phần làm cho giao lưu quốc tế trở nên sôi động và năng động, nâng cao khả năng hiện đại hóa các loại hình văn hóa, nghệ thuật, làm gia tăng sự kết hợp giữa yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật, công nghệ, tạo nên sức mạnh mới trong giao lưu và hội nhập quốc tế. Như vậy, cuộc cách mạng khoa học công nghệ không chỉ góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mà còn thúc đẩy sự phát triển của văn hóa dân tộc trong thời kỳ toàn cầu hóa, đồng thời cũng tạo nên những thách thức mới cho sự phát triển văn hóa dân tộc.

2.1.1.3. Tác động của quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa

Dự báo về bối cảnh quốc tế tác động đến công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay, Đại hội X đã khẳng định rõ: “Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ ... giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ sẽ có những bước nhảy vọt và những đột phá lớn.

Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các nguồn tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nước với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết: khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nghèo ngày càng lớn. Sự gia tăng dân số cùng với các luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị huỷ hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh; các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng gia tăng”1. Một vấn đề lớn là “Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện

1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN.2006, tr.74

“âm mưu hoà bình” gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”,

“nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị nước ta”1. Những dự báo này rất có ý nghĩa đối với sự phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm vừa qua và những năm tiếp theo.

2.1.2.Tình hình kinh tế - xã hi trong 25 năm đổi mi va qua Đứng trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới và những khó khăn thách thức do khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt kéo dài từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định Đổi mới là sự nghiệp sống còn của Đảng và của đất nước. Quá trình đổi mới tư duy của Đảng, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế đã tạo nên sự bứt phá trong hoạt động thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế. Với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng khách quan, lấy dân làm gốc, nhận thức rõ ràng và sâu sắc hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiện, Đại hội VI đã xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là

“ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”2.

Kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội IX của Đảng và nhìn lại 20 năm đổi mới, Đại hội X đã khẳng định “Những thành tựu rất quan trọng” trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội IX. Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm 2001-2005 là 7,51%. Năm 2005 bình quân đầu người trên 10 triệu đồng tương đương 640 USD, đạt mức kế hoạch đề ra. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế (tích lũy - tiêu dùng, thu - chi ngân sách…) được cải thiện; việc huy động các nguồn nội lực cho phát triển có chuyển biến tích cực.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN.2006, tr. 75.

2 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2005, tr.42.

Văn hóa và xã hội có bước tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện.

Những thành tựu về kinh tế xã hội nói trên là cơ sở để Đại hội X xác định mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 là

“Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”1.

Tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm trên 7% và ổn định về chính trị, xã hội đã tạo cho nước ta có thếlực mới trong quá trình phát triển.

Bên cạnh những thành tựu “to lớn có ý nghĩa lịch sử”, sự nghiệp đổi mới ở nước ta cũng đang đứng trước những nguy cơ cần phải khắc phục. Đó là nguy cơ tụt hậu, nguy cơ chệch hướng, nguy cơ “diễn biến hòa bình”, và nguy cơ tham nhũng. Đây là những nguy cơ tiềm ẩn, có thể đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và hệ thống chính trị, phá vỡ thành quả của sự nghiệp đổi mới. Đồng thời với các nguy cơ đó, Đại hội X đã chỉ rõ những yếu kém trong lĩnh vực kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Những yếu kém đó là:

- Chất lượng phát triển kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn kém.

- Kết cấu hạ tầng kinh tế , xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.

- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế, các cân đối vĩ mô chưa chật vững chắc.

- Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều hạn chế.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lền thứ X, Nxb CTQG, HN.2006, tr.185-186.

- Chất lượng giáo dục - đào tạo còn thấp, nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chưa được khắc phục

- Bộ máy nhà nước chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.

Đây là những yếu kém cần được tiếp tục khắc phục để đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi.

Nhìn lại chặng đường 25 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua bao nhiêu thăng trầm, thậm chí có lúc khủng hoảng gay gắt, nhưng đã vươn lên, đạt được sự ổn định và bước vào giai đoạn phát triển mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã được nâng lên rõ rệt. Uy tín quốc tế của nước ta ngày càng được khẳng định. An ninh quốc phòng được giữ vững.

Đây là “những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử” đối với sự phát triển của đất nước. Đồng thời đây cũng là bối cảnh và là cơ sở để nhân dân ta xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Một phần của tài liệu đề tài phát triển văn hoá việt nam giai đoạn 2011-2020 (Trang 85 - 90)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(398 trang)