Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
2.3. Thực trạng và bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng con người và môi trường văn hóa ở nước ta trong 25 năm đổi mới vừa qua
2.3.1.1. Thực trạng xây dựng và phát triển con người a, Thành tựu
Xem xét, đánh giá thực trạng xây dựng phát triển con người, nguồn lực con người ở nước ta trong thời gian qua có thể thấy trên những nét cơ bản, tổng quát sau đây:
Đến năm 2007, dân số cả nước là 86.210,8 nghìn người, trong đó dân số thành thị là 24.223,3 nghìn người; 61.977,5 nghìn người sống ở nông thôn.
-Về mặt quy mô, dân số Việt Nam đứng thứ 13 trên thế giới; đó là cơ sở to lớn cho phát triển nguồn lực con người. Năm 2003, Việt Nam có khoảng 80,9 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số giảm, hiện còn khoảng 1,4%
hàng năm. Tuổi thọ ngày càng tăng. Năm 2002, tuổi thọ trung bình chung là 69, ở nam là 66,7 và ở nữ 71,4 (UNDP, 2004). Đến năm 2007, tuổi thọ trung bình là 74,3 tuổi. Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là một trong mười nước có tuổi thọ tăng nhanh nhất trong thời kỳ vừa qua.
Đặc biệt, Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ. Số trẻ em tuổi từ 0 đến 16 tuổi chiếm tới 39,1% tổng dân số năm 1989, 33,5% năm 1999. Dân số trong độ tuổi lao động có xu hướng tăng; điều này thể hiện qua các cuộc điều tra dân số năm 1979, 1989,1999 và 2009. Tỷ lệ trong độ tuổi lao động từ 47,08 phần trăm năm 1979 tăng lên 52,03% năm 1989, 57,1%
năm 1999 và 62,30% năm 2004. Năm 2009, dân số đang làm việc trong các thành phần kinh tế là gần 45 triệu người trên tổng số 86 triệu dân. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động đang trong độ tuổi ở khu vực thành thị giảm từ 6,42% năm 2000 xuống còn 4,64% năm 20071. Đây là "cơ cấu vàng" cần được khai thác cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Niên giám thống kê 2008. Trang 60.
Trình độ học vấn của nguồn nhân lực nước ta khá cao. Nhờ phát triển mạnh mẽ giáo dục và quan tâm đặc biệt đến mục tiêu dân trí, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học năm 2000 và đang phấn đấu phổ cập giáo dục THCS vào năm 2010. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực nước ta không ngừng được nâng lên. Trong đó lực lượng có trình độ đại học tăng nhanh. Chỉ số tổng quát đánh giá sự phát triển và tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam là chỉ số phát triển con người (HDI).
Chỉ số này của nước ta hàng năm được cải thiện đáng kể. Tuy nước ta còn nghèo, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, nhưng do Đảng và Nhà nước ta đầu tư mạnh vào phát triển vốn con người, trước hết là giáo dục và y tế, nên chỉ số phát triển con người Việt Nam được xếp vào tốp đầu các nước kém phát triển.
Theo Báo cáo phát triển con người của Liên hiệp quốc (LHQ) công bố tháng 10/2009 lấy số liệu năm 2007, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam xếp thứ 116/182 nước. Chỉ số HDI phản ánh mức sống lâu và khỏe mạnh (đo tuổi thọ trung bình); được học hành (đo tỷ lệ biết chữ ở người lớn và tỷ lệ nhập học chung trong giáo dục) và mức sống (đo bằng thu nhập GDP theo sức mua tương đương PPP). Trong giai đoạn 1985 – 2007, mỗi năm HDI của Việt Nam tăng 1,16 % (từ 0,561 lên 0,725), tuy rằng có lúc nền kinh tế tăng trưởng chậm lại do tác động của khủng hoảng.
Ngoài chỉ số HDI, hai chỉ số khác của Việt Nam là tuổi thọ trung bình (xếp thứ 54 thế giới với tuổi thọ trung bình là 74,3) và tỷ lệ biết chữ ở người lớn xếp thứ 69 (chiếm 90,3% số người từ 15 tuổi trở lên).
Phụ nữ chiếm 50,8% dân số và 52% lực lượng lao động. Nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ tạo ra nguồn tiềm năng to lớn về nguồn lực con người và là ưu thế của Việt Nam trong tăng trưởng và phát triển kinh tế so với các nước kém phát triển. Chỉ số phát triển giới của nước ta khá cao so với các nước trong khu vực và xếp ở vị trí trung bình (87) trên thế giới (trong số 144 nước).
Phân bố lao động theo ngành kinh tế đang diễn ra theo hướng tích cực; tỷ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP giảm và tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng mạnh. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phân bố lao động theo thành phần kinh tế thay đổi mạnh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, đa dạng hóa sở hữu và các thành phần kinh tế. Sự đa dạng hóa sở hữu và sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã đóng góp rất lớn vào sự tăng trưởng của quốc gia. Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế theo số liệu thống kê cho thấy năm 2007, kinh tế nhà nước chiếm ,07%, kinh tế ngoài Nhà nước chiếm 87,20%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 3,73%1.
Tóm lại, Việt Nam hiện nay đang có cơ cấu dân số trẻ và tỷ lệ người già vẫn còn thấp, cơ cấu này được gọi là cơ cấu vàng. Trình độ văn hóa của người lao động khá cao, trình độ chuyên môn kỹ thuật không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp là một cản trở lớn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp cao, năng suất lao động khu vực này lại thấp. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm lao động làm việc trong nông lâm ngư nghiệp đang diễn ra với tốc độ chậm chạp khó đáp ứng mục tiêu "đến năm 2020 về cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại" nếu không có những giải pháp mạnh mẽ và đồng bộ.
b, Hạn chế
Qua kết quả nghiên cứu và dựa vào nhiều số liệu cho thấy, quá trình đổi mới, mở cửa ở nước ta là quá trình thay đổi định hướng giá trị xã hội trong phát triển nguồn lực con người và sự phát triển nhân cách. Bên cạnh mặt tích cực là "tính năng động và tính tích cực công dân (...) sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"2 đã xuất hiện những biểu hiện tiêu cực, suy thoái nghiêm trọng trong nhân cách con người,
"nổi lên trước hết ở nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống (...) một số người dao động hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa (...) phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực(...) phủ nhận con đường đi
1 Tổng cục Thống kê. Niên giám Thống kê. Nxb Thống kê 2009. Trang 53.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII,Nxb CTQG, HN,1998, tr.42-43.
lên chủ nghĩa xã hội (...) phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam (...) không ít người còn mơ hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta. Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có quyền (...). Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp, lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi, nghiện ma túy... ở một bộ phận học sinh, sinh viên"1. Những lệch lạc tiêu cực trong định hướng giá trị của con người Việt Nam thời gian qua chậm được khắc phục, đang có chiều hướng gia tăng và thay đổi phức tạp.
Những tồn tại, yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan. Đó là sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt.
Chưa chỉ đạo tập trung và tổ chức thực hiện thiếu quyết liệt,.. Tình trạng nói nhiều, làm ít, làm không đến nơi, đến chốn diễn ra ở nhiều nơi. Hiệu lực quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực... còn thấp. Công tác kiểm tra, thanh tra hiệu lực còn thấp; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ...Vì vậy, việc xây dựng và phát triển con người Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT phải khắc phục bằng được những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức,lối sống, sinh hoạt... hình thành con người mới với những chuẩn mực giá trị của nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
2.3.1.2. Thực trạng xây dựng, phát triển môi trường văn hóa a, Thành tựu
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Tlđd, tr.46-47.
Những nhận thức mới của Đảng về văn hóa đã sớm đi vào cuộc sống, được các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng; đã có nhiều chủ trương, sáng kiến cụ thể trong tổ chức thực hiện, bước đầu gắn kết công tác văn hóa với các lĩnh vực của đời sống xã hội, nâng cao bản lĩnh và trình độ tổ chức thực hiện nhiệm vụ, góp phần giữ vững ổn định chính trị, đạt những thành tựu quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... của đất nước. Vấn đề xây dựng môi trường văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp, từ Trung ương đến cơ sở, đã xác định văn hóa là nội dung quan trọng trong hoạt động của mình, có nhiều chủ trương, biện pháp thực tế thúc đẩy nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa. Các cơ quan nhà nước đã xây dựng hàng trăm văn bản pháp quy liên quan công tác văn hóa.
Chính phủ đã đề ra và thực hiện các chương trình hành động về văn hóa.
Mặt trận Tổ quốc triển khai "Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư". Bộ Văn hóa - Thông tin (cũ) nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học- Công nghệ và các Hội văn học - nghệ thuật, khoa học kỹ thuật triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm đẩy mạnh sáng tạo văn hóa, khoa học- công nghệ, giáo dục... Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện cải cách hành chính góp phần không nhỏ vào việc xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy nhà nước.
Việc xây dựng thể chế và thiết chế văn hóa đã chú ý đến những yêu cầu của thời kỳ mới, tuy chưa hoàn chỉnh nhưng về căn bản bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phát huy tiềm năng sáng tạo của trí thức, văn nghệ sĩ và của nhân dân, góp phần thiết thực vào việc xây dựng một môi trường văn hóa. Các thiết chế văn hóa từ Trung ương đến địa phương sau một thời gian lúng túng trong hoạt động khi mới chuyển đổi cơ chế nay cách tổ chức và hoạt động bước đầu đã có sự đổi mới, cơ sở vật chất được tăng cường, một số công trình văn hóa quy mô lớn, hình thức kiến trúc đẹp được xây dựng. Công tác đào tạo đội ngũ những người hoạt động văn hóa, nghệ thuật có bước phát triển về quy mô,
mạng lưới, loại hình, số lượng và trình độ, bao quát được hầu hết các ngành nghề cần thiết cho các hoạt động văn hóa.
Phong trào ”Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là cuộc vận động quần chúng tham gia xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đang được mở rộng và đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả thiết thực.
Công tác xây dựng làng bản buôn văn hóa đã chú ý nâng cao chất lượng.
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, đề cao giá trị đạo đức, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ Văn hóa số lượng gia đình được công nhận gia đình văn hóa tăng hàng năm. Năm 2000 cả nước có 8.703.398/17.473.623 gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa( tỷ lệ 49,8%); đến năm 2005 có 12.824.392/17.473.623 gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa (tỷ lệ 73,39%); năm 2006 có 13.315.993/17.743.048 gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa (tỷ lệ 75,76%) và năm 2007 có 13.443.100 gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa( tỷ lệ 76,92%)1. Đời sống văn hóa ở cơ sở đã có bước phát triển, ở miền núi, biên giới hải đảo , vùng sâu , vùng xa, đời sống văn hóa tuy còn thấp so với đô thị và đồng bằng nhưng đã có những cải thiện rõ rệt. Trong 10 năm qua (1998-2008) ngành bưu chính - viễn thông đã xây dựng và khai thác gần 9000 điểm bưu điện- văn hóa xã. Năm 2004 cả nước có 101.478 khu dân cư triển khai cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa (đạt tỷ lệ 99,6%). Đến tháng 6/2005 qua báo cáo của 50 tỉnh thành phố đã có 57.325/95.708 khu dân cư đạt danh hiệu khu dân cư tiên tiến (tỷ lệ 59,8%). Năm 2000 cả nước công nhận 16.758/80.303 làng, bản, ấp, khu phố đạt danh hiệu văn hóa, chiếm tỷ lệ 20,8%; đến tháng 6/2005 tăng lên 42.929/80.303 làng, bản, ấp, khu phố đạt danh hiệu văn hóa, chiếm tỷ lệ 53,4%. Tháng 12/2006 tăng lên 47.488/110.781 làng, bản, ấp, khu phố văn hóa. Tính đến tháng 6/2005 cả nước có 39.157 cơ quan, công sở, doanh nghiệp được bình chọn là đơn vị có đời sống văn hóa tốt. Tháng 12/2006 có 36.361/54.276 cơ quan công sở đạt danh hiệu cơ quan công sở văn hóa.
1 Dẫn theo Nguyễn Hữu Thức: Về cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Nxb Từ điển bách khoa, HN,2009, tr.118-119.
Đến tháng 12/2007 cả nước có 45.220 cơ quan công sở đạt danh hiệu cơ quan công sở văn hóa1.
Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa - cả vật thể và phi vật thể - được giữ gìn, tôn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hóa đã nhanh và đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hóa góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa đã có sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; văn hóa, con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu biết rõ hơn. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa phát triển sâu rộng hơn. Hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình được đổi mới về nội dung, tăng quy mô, mở rộng phạm vi tới vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và nước ngoài. Đến năm 2007, đã có hơn 700 cơ quan báo chí và hàng trăm ngàn trang tin điện tử. Phát thanh và truyền hình đã phủ sóng trên 90% lãnh thổ. Hoạt động thể dục, thể thao tiếp tục phát triển theo chiều rộng và có bước nâng cao.
Cơ sở vật chất cho hoạt động thể dục thể thao được tăng cường. Tính đến tháng 12/2004 cả nước có 22.598 xã, phường, thị trấn và trên 6º% số làng thôn ấp bản... có sân bãi thể thao. Số người tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên là 14.575.655 người đạt tỷ lệ 17,7%, tăng 5,7% so với năm 2000; số trường học thực hiện chương trình giáo dục thể chất có nền nếp là 23.342 trường đạt tỷ lệ 91,4%, tăng 31,4% so với năm 20002.
Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và những nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đoàn thể trong việc xây dựng môi trường văn hóa đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Theo
1 Dẫn theo Nguyễn Hữu Thức: Về cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Nxb Từ điển bách khoa, HN,2009, tr.121-125.
2 Dẫn theo Nguyễn Hữu Thức: Về cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Nxb Từ điển bách khoa, HN,2009, tr.126-128.