Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
2.11. Thực trạng thực hiện các chính sách văn hóa trong kinh tế
Thực chất mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa được thể hiện tập trung ở chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế. Vì vậy, đề tài tập trung vào nghiên cứu các chính sách này để làm rõ ảnh hưởng của văn hóa đối với kinh tế và ảnh hưởng của kinh tế tới văn hóa.
2.11.1. Thực trạng thực hiện chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế ở nước ta trong 25 năm đổi mới vừa qua
Xuất phát từ nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã tập trung chỉ đạo xây dựng và thực hành các chính sách kinh tế trong văn hóa và các chính sách văn hóa trong kinh tế. Các chính sách này đã được triển khai sâu rộng trong thực tiễn và thu được những thành tựu đáng kể, vừa góp phần phát triển kinh tế – xã hội, vừa góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đóng góp to lớn vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2.11.1.1. Chính sách kinh tế trong văn hóa
Chính sách kinh tế trong văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách làm thực tiễn và các phương pháp quản lý kinh tế hay ngân sách dùng làm cơ sở điều tiết các hoạt động văn hóa.
a, Những thành tựu thực hiện chính sách kinh tế trong văn hóa Đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đã tạo một cơ chế mới, một hành lang pháp lý đảm bảo cho chính sách kinh tế trong văn hóa đi vào cuộc sống. Trong những năm đổi mới vừa qua, đặc biệt kể từ khi Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII ra đời, chính sách văn hóa trong kinh tế không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và đã có những tác động không nhỏ làm thay đổi đời sống văn hóa nước ta.
Thứ nhất, thành tựu đầu tiên phải kể đến là sự ra đời của thị trường văn hóa phẩm. Sự bao cấp toàn diện cho văn hóa không còn thích hợp trong bối cảnh chúng ta lựa chọn thị trường như một cơ sở để phát triển.
Chính sự vận động của thực tiễn khách quan đã làm thay đổi tư duy cố hữu về văn hóa; từ chỗ xem văn hóa chỉ thuần túy là lĩnh vực tinh thần đến việc nhìn nhận văn hóa có thể là những hoạt động sinh lợi, góp phần tạo ra sự phát triển cho kinh tế bằng cách xem mình như một hoạt động
kinh tế trong lĩnh vực văn hóa; từ chỗ hoài nghi về tính thương mại của hoạt động văn hóa đến chỗ công nhận một thị trường văn hóa tồn tại bên cạnh một thị trường hàng hóa, thị trường chứng khoán…
Nhu cầu đa dạng của công chúng trong những năm vừa qua cộng với sự nỗ lực của các chủ thể lãnh đạo, quản lý và sáng tạo văn hóa đã tạo nên sự phong phú của thị trường văn hóa. Xuất hiện nhiều loại thị trường văn hóa khác nhau như thị trường điện ảnh, thị trường báo chí, xuất bản;
thị trường băng đĩa, băng hình; thị trường nghệ thuật biểu diễn,... Việc xuất hiện và không ngừng mở rộng cả về số lượng và chất lượng của các loại thị trường văn hóa phần nào đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của đông đảo các tầng lớp trong xã hội. Người dân có nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm văn hóa phù hợp với sở thích và điều kiện bản thân.
Thứ hai, một thành quả đáng kể khác của việc thực hiện chính sách kinh tế trong văn hóa là sự đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động văn hóa. Thành quả này gắn liền với chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Chủ trương này của Đảng và Nhà nước đã góp phần huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia vào xây dựng và phát triển văn hóa, phá bỏ thế độc quyền của các đơn vị văn hóa Nhà nước.
Năm 2000, Luật Doanh nghiệp ra đời tạo cơ sở pháp lý cho các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo bước đột phá cải cách thủ tục hành chính cấp phép cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhiều hoạt động văn hoá như các cơ sở in, cơ sở phát hành sách, dịch vụ văn hóa, tổ chức biểu diễn nghệ thuật... trước đây Nhà nước độc quyền nay chủ yếu do lực lượng kinh tế tư nhân đảm nhiệm. Thị trường văn hóa trở lên sôi động và đa dạng hơn. Thực hiện Luật Xuất bản 2004, hàng trăm nhà sách của tư nhân đã tham gia liên doanh, liên kết xuất bản, có nhà xuất bản số đầu sách mới xuất bản tới 70% là sách liên kết. Từ năm 2005, Nhà nước đó xóa bỏ cơ chế độc quyền xuất bản lịch Blốc. Đối với lĩnh vực điện ảnh, sự ra đời của các hãng phim tư nhân cũng được xem là một xu hướng mới, tác động tích cực tới sự phát triển của điện ảnh nước nhà. Những rạp chiếu phim hiện đại nhất ở các thành phố lớn hiện nay cũng là những rạp chiếu phim tư nhân như Mega Star, Galaxy- Thiên Ngân, Lotte Cinema...
Những năm trước đây, Nhà nước độc quyền xuất nhập khẩu văn hoá phẩm. Hiện nay, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đã được phép xuất
khẩu những sản phẩm văn hoá được cấp phép lưu hành ở trong nước.
Chính sách này tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn đưa văn hoá phẩm của Việt Nam ra thế giới.
Chúng ta cũng có chính sách cởi mở để các tập thể, cá nhân có khả năng thực hiện liên doanh, liên kết tổ chức các sự kiện văn hoá ở trong nước và ngoài nước. Nhà nước thực hiện quyền cấp phép và quản lý về nội dung chương trình. Nhờ chính sách này nhiều sự kiện văn hoá lớn trên thế giới, như một số cuộc thi hoa hậu thế giới đã được tổ chức tại Việt Nam.
Một mặt, Đảng và Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển văn hóa, mặt khác, Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm tăng cường năng lực của các đơn vị hành chính sự nghiệp, của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Có thể kể đến hàng loạt những chủ trương như: trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ văn hóa;
tách các doanh nghiệp ra khỏi cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa; kiên trì thực hiện chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp văn hóa; liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế thực hiện các dịch vụ công đúng với chức năng, nhiệm vụ Nhà nước giao…
Thứ ba, cùng với lộ trình xã hội hóa hoạt động văn hóa, Nhà nước cũng từng bước ban hành các chính sách hết sức cụ thể nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho các đơn vị, tổ chức của nhà nước tháo gỡ khó khăn như: chính sách bồi dưỡng đối với những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, ưu đãi về thuế, ưu đãi về đất đai, chế độ nhuận bút, bảo hộ quyền tác giả, trợ giá cho việc phát hành sách báo ở vùng sâu, vùng xa, bảo trợ cho các đoàn nghệ thuật, các đơn vị, tổ chức văn hóa thông tin hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị…
Việc đầu tư và các công trình văn hóa trọng điểm cũng là một chủ trương khác của Nhà nước nhằm thực hiện chính sách kinh tế trong văn hóa. Trước mắt, sẽ xây dựng mới một số nhà hát, trung tâm văn hóa tại những thành phố lớn và tại những thành phố mới tập trung đông dân. Nhà nước chủ trương đầu tư vào các công trình như: Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam, Nhà hát Cải lương Trung ương, Nhà hát Tuổi Trẻ, Bảo tàng nghệ thuật Việt Nam ở Hà Nội; ở Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có Nhà hát Thiếu thi Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà nước cũng sẽ xây dựng các nhà hát mới đa năng tại các tỉnh, thành phố như: Sơn La, Quảng Ninh, Hải Phòng,
Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Vũng Tàu... Đặc biệt là đầu tư xây dựng hai công trình văn hóa lớn là Trung tâm Văn hóa nghệ thuật tại Hà Nội với 5.000 chỗ ngồi và Trung tâm Văn hóa nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh với khoảng từ 5.000 đến 7.000 chỗ ngồi. Mức đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ biểu diễn cho các đơn vị nghệ thuật sẽ tăng từ 10% đến 15% tùy theo thực tế từng đơn vị và tiêu chí xếp hạng đơn vị sao cho có hiệu quả. Cố gắng để tới năm 2010 các đơn vị nghệ thuật đều có sàn tập đủ điều kiện luyện tập và dàn dựng tác phẩm.
Một số Dự án xây dựng các trường quay có quy mô lớn và hiện đại đã khởi công.
Có thể thấy một yếu tố mới trong việc đầu tư thiết bị cho các đơn vị hoạt động văn hóa, nghệ thuật là chú ý đến tính hiện đại, thuận tiện, hợp lý của các trang thiết bị kỹ thuật. Trang thiết bị kỹ thuật không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu luyện tập, biểu diễn, sáng tạo văn hóa nghệ thuật mà còn nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của người dân. Với việc
“xếp hạng sao”, trang thiết bị kỹ thuật của các đơn vị sẽ được tiêu chuẩn hóa. Điều này rất quan trọng trong quá trình phát triển của nghệ thuật biểu diễn. Nó không chỉ nhằm đảm bảo cho hoạt động của các đơn vị biểu diễn nghệ thuật được tốt hơn mà còn nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho việc quản lý, giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực và thế giới.
Với những loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống đang có nguy cơ thất truyền, Nhà nước sẽ có kế hoạch tài trợ dưới nhiều hình thức:
Tài trợ kinh phí cho việc phục hồi, bảo lưu; Tài trợ kinh phí và trang thiết bị cho các cơ quan chức năng mở lớp tập huấn - đào tạo tại cơ sở và truyền nghề... Việc tài trợ tiếp tục được thực hiện theo Quyết định 25/TTg của Thủ tướng Chính phủ về Một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa nghệ thuật. Theo đó, Nhà nước đầu tư 100% kinh phí cho việc xây dựng tiết mục, luyện tập thường xuyên và trang bị của các đơn vị nghệ thuật dân tộc, bao gồm: tuồng, chèo, dân ca, cải lương, múa rối và các đơn vị nghệ thuật: nhạc vũ kịch, nhạc giao hưởng, xiếc của Trung ương và địa phương. Ngoài ra, cùng với mức lương được hưởng theo quy định, hàng tháng, các nghệ sĩ, diễn viên trong các đơn vị nghệ thuật của nhà nước còn được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi theo Quyết định số 180/2006/QĐ-TTg của Thủ tưởng Chính phủ (ngày 09/8/2006)
bao gồm: phụ cấp ưu đãi theo nghề, bồi dưỡng luyện tập, bồi dưỡng biểu diễn.
b, Những hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, việc xây dựng và thực hiện chính sách kinh tế trong văn hoá thời gian vừa qua cũng đó bộc lộ một số yếu kém. Nhiều người khi được hỏi đã tỏ ý nghi ngại hoặc không tán đồng một số điểm cụ thể trong chính sách kinh tế trong văn hoá. Những ý kiến đó không phải không có cơ sở. Thực tế, việc xây dựng và thực hiện chính sách kinh tế trong văn hoá trong thực tiễn đó bộc lộ những bất cập sau:
- Việc xây dựng các chính sách kinh tế trong văn hoá còn chậm, chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ hình thành một thị trường văn hóa theo đúng nghĩa và được phát triển theo định hướng XHCN. Nhiều vấn đề liên quan đến kinh tế trong thực hiện chính sách kinh tế trong văn hoá chậm được cơ quan quản lý văn hóa hướng dẫn đã làm giảm nguồn lực tinh thần cho hoạt động văn hoá. Như vấn đề kinh tế trong báo chí, trong hoạt động quảng cáo…. Một số chính sách, chế tài, liên quan công tác tài chính và tổ chức hoạt động kinh tế của các đơn vị thuộc ngành văn hóa – thông tin trong thực tế đã bị thực tiễn vượt qua. Thí dụ: chưa quan tâm việc xác định mô hình, từ đó, xây dựng cơ chế quản lý tài chính phù hợp, xác định mức thuế cho báo chí như doanh nghiệp, trong khi hoạt động báo chí trước hết và trên hết, là hoạt động tư tưởng văn hoá; áp dụng mức thuế chung mà không tính đến tính chất của các nhóm báo chí là tuyên truyền hay giải trí; hạn chế thời lượng quảng cáo của báo hình, báo phát thanh, diện tích quảng cáo của báo in… Nội dung Luật Báo chí, Luật Báo chí sửa đổi cũng chưa tính đến khả năng ra xuất hiện của mô hình doanh nghiệp truyền thông và cơ chế hoạt động nhằm đảm bảo tính chính trị và hiệu quả kinh tế của nó…
Hệ thống chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các dịch vụ văn hoá, nhất là lĩnh vực công nghiệp văn hoá, lĩnh vực xây dựng các thiết chế văn hoá có hoạt động kinh tế (ở trong các trường học, khu công nghiệp, khu đô thị...) chưa đồng bộ và chế độ ưu đãi chưa rõ ràng nên chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp quan tâm đầu tư. Chậm ban hành chính sách kinh tế trong lĩnh vực thông tin đối ngoại nhằm quảng bá đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Chưa làm rõ cơ chế phối hợp văn hoá, du lịch và kinh tế trong phát triển văn hoá nhằm giữ gìn
và phát huy di sản văn hoá dân tộc, dẫn tới nhiều vụ việc vi phạm di sản văn hoá. Chính sách thuế còn bất cập.
- Việc thực hiện chính sách kinh tế trong văn hoá gặp nhiều khó khăn, trở ngại, chưa tạo được động lực tinh thần trong thực hiện chính sách. Tâm lý bao cấp, trông chờ, ỉ lại vào Nhà nước trong một bộ phận lớn cán bộ, công nhân viên ở các đơn vị văn hoá đang cản trở quá trình đổi mới hoạt động và thực hiện chính sách kinh tế trong văn hoá. Mặc dù Nhà nước sớm có chủ trương đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hoá nhưng việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên lĩnh vực văn hoá tiến hành chậm. Bộ Văn hoá – Thông tin có đề án định hướng quy hoạch và sắp xếp các đoàn nghệ thuật ở Trung ương và địa phương nhưng nhiều địa phương triển khai cầm chừng, hiệu quả không cao.
2.11.1.2. Chính sách văn hóa trong kinh tế
Chính sách văn hóa trong kinh tế là chính sách khai thác và phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế, đồng thời đảm bảo cho kinh tế phát triển bền vững và đem lại hạnh phúc cho con người.
Chính sách văn hóa trong kinh tế có vai trò đặc biệt trong việc đảm bảo định hướng nhân văn của các hoạt động kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và tính bền vững của sự phát triển kinh tế. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động kinh tế của đất nước ngày càng diễn ra sôi động, đa dạng và không kém phần phức tạp. Việc xác lập và thực hiện chính sách văn hóa trong kinh tế là điều kiện hàng đầu để đảm bảo tính chất ưu việt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời là cơ sở để chống lại hàng loạt những tiêu cực xã hội trong lĩnh vực này.
a, Những thành tựu
Việc đưa văn hóa vào các lĩnh vực, các bình diện xã hội, vào phát triển quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất… đã được cả xã hội quan tâm trong những năm vừa qua. Việc khẳng định trên cả phương diện lý luận và thực tiễn về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã nhận được sự nhất trí cao của các cấp, các ngành. Chính vì thế, chính sách văn hóa trong kinh tế, từ nhận thức đến hành động đã thu nhận được những kết quả bước đầu.
Thứ nhất là sự chuyển biến về nhận thức của xã hội về vai trò của văn hóa với sự phát triển kinh tế. Tổ chức Văn hóa, khoa học, giáo dục của Liên hiệp quốc đã khẳng định: “Khi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế được đặt ra mà tách rời trường văn hoá thì kết quả thu được sẽ rất khập khiễng, mất cân đối cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá, đồng thời tiềm năng sáng tạo của mỗi dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều”1. Do đó, “nhận thức về vị trí, vai trò của văn hoá trong phát triển, chúng ta cần vượt lên trên cách tiếp cận kinh tế học thuần tuý và tìm ra hàng trăm các phương thức có thể được để cho tính công nghiệp và tính sáng tạo có thể gắn bó móc nối với nhau và để kinh tế có thể bắt rễ trong văn hoá”2.
Sự đổi mới tư duy lý luận về văn hóa dẫn đến sự chuyển biến nhận thức của cả xã hội đối với vai trò của văn hóa đã tạo điều kiện cho văn hóa thấm sâu vào mọi hoạt động, trong đó có các hoạt động kinh tế. Sự chuyển đổi trong tư duy phát triển này ngày càng hiện hữu trong các chính sách ở tầm vĩ mô và cả vi mô. Từ chỗ chỉ chú trọng đến sự tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập bình quân đầu người và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác, các chính sách vĩ mô đã hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, khẳng định đây chính là điều kiện để thực hiện thành công đường lối “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Ở cấp vi mô, việc khai thác nhân tố văn hóa như một nguồn lực để phát triển kinh tế đã không còn xa lạ đối với nhiều doanh nghiệp. Từng bước, văn hoá đã khẳng định được vị trí của mình, nó không phải là sự phản ánh thụ động, là sản phẩm tự nhiên của kinh tế. Bản thân sự phát triển kinh tế cũng không phải chỉ do các nhân tố kinh tế đơn thuần tạo ra. Động lực của sự phát triển kinh tế một phần quan trọng lại nằm trong văn hoá.
Thứ hai là cộng đồng doanh nghiệp đã quan tâm tới việc khai thác yếu tố văn hóa trong sản xuất, kinh doanh. Đây có thể xem như một thành tựu khá quan trọng của việc thực hiện chính sách văn hóa trong kinh tế.
1 Uỷ ban Quốc gia về Thập kỷ quốc tế văn hoá vì phát triển: Thập kỷ quốc tế văn hoá vì phát triển, Bộ VHTT, 1992, trang 19.
2 Uỷ ban Quốc gia về Thập kỷ quốc tế văn hoá vì phát triển: Thập kỷ quốc tế văn hoá vì phát triển, Bộ VHTT, 1992, trang 22.