Thực trạng và bài học kinh nghiệm xây dựng văn hóa trong Đảng và văn hóa trong cơ quan Nhà nước trong 25 năm đổi mới

Một phần của tài liệu đề tài phát triển văn hoá việt nam giai đoạn 2011-2020 (Trang 163 - 177)

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU

2.10. Thực trạng và bài học kinh nghiệm xây dựng văn hóa trong Đảng và văn hóa trong cơ quan Nhà nước trong 25 năm đổi mới

Văn hóa chính trị là bộ phận cốt lõi có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển toàn diện của đất nước nói chung và đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta nói riêng. Văn hóa chính trị bao gồm toàn bộ hệ tư tưởng chính trị của Đảng cầm quyền, bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị, thể chế, thiết chế chính trị cũng như đội ngũ nhân sự tham gia hoạt động chính trị cùng nhân cách, phẩm chất đạo đức của họ và sự tham gia vào sinh hoạt chính trị của quần chúng. Vấn đề cốt lõi trong việc xây dựng văn hóa chính trị là xây dựng môi trường văn hóa trong Đảng và trong cơ quan Nhà nước. Trong giới hạn của Đề tài, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu thực trạng xây dựng môi trường văn hóa trong Đảng và trong cơ quan Nhà nước.

2.10.1. Thc trng và bài hc kinh nghim xây dng văn hóa trong Đảng nước ta trong 25 năm đổi mi va qua

2.10.1.1. Thực trạng a, Thành tựu

Trong thời gian vừa qua, trước những đảo lộn to lớn của tình hình chính trị thế giới, trước những thách thức về tồn tại và phát triển của các hình thái hiện thực XHCN, trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội trong nước... đại bộ phận cán bộ lãnh đạo đã giữ vững được bản lĩnh chính trị của mình. Điều đó được thể hiện tiêu biểu ở sự trung thành tuyệt đối với những nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng và hành động sai trái đi ngược lại quan điểm, đường lối của Đảng và lợi ích chính đáng của nhân dân; kiên quyết phủ nhận đa nguyên và đa đảng đối lập gây rối loạn chính trị cản trở quá trình phát triển của đất nước.

Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới là kết quả của sự kiên định và vững vàng về lựa chọn chính trị của những người cộng sản Việt Nam, dám đối mặt với sai lầm, khuyết điểm, quyết tâm đổi mới, nhưng đổi mới có nguyên tắc, theo đuổi đến cùng con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là độc lập dân tộc và CNXH.

Xây dựng đường lối đổi mới chính là nơi thể hiện đầy đủ và tập trung về bản lĩnh và vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Công cuộc đổi mới chính là bắt nguồn từ sự vận động của những mâu thuẫn trong đời sống hiện thực, đồng thời cũng được nhận thức và

thúc đẩy bởi đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ tầm chiến lược - những người với bản lĩnh và tư duy nhạy bén về chính trị, đã phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh, từ đó mà hoạch định đường lối và chính sách đổi mới phù hợp.

Thực tiễn của công cuộc đổi mới đã cho thấy ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo tinh thần năng động, sáng tạo, ý thức tự lực tự cường, tự tôn dân tộc, ý chí vượt lên khó khăn, thách thức để góp sức đưa đất nước sớm thoát khỏi đói nghèo, chậm phát triển, góp phần khôi phục lòng tin của nhân dân với Đảng. Gần 25 năm của quá trình đổi mới có thể khẳng định trình độ và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta đã có những bước chuyển biến tích cực đáng kể. Nhanh chóng vượt qua những bỡ ngỡ, lúng túng ban đầu khi bước vào cơ chế mới, đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã trụ lại được trên các lĩnh vực công tác của mình . Chính đội ngũ này đã tích cực góp phần hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng, các chính sách quản lý và hệ thống pháp luật của Nhà nước, ...

Trình độ tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo đã được nâng lên rõ rệt. Các quá trình chính trị - xã hội không còn được nhìn nhận một cách máy móc, ấu trĩ, giản đơn như trước. Sự nhận thức biện chứng về đời sống hiện thực, sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, sự phân tích vấn đề trong bối cảnh tình hình lịch sử - cụ thể được quán triệt hơn. Chính sự đổi mới về tư duy lý luận như vậy đã đưa đến kết quả là những văn kiện, nghị quyết của các cấp uỷ đảng, nhất là của Trung ương mang tầm trí tuệ cao, thể hiện ở tính chiến lược phát triển cũng như ở những giải pháp chỉ đạo hoạt động thực tiễn mang tính hợp lý và khả thi.

Đội ngũ này có tinh thần chủ động, độc lập suy nghĩ, hành động, kiên trì tìm tòi cái mới, có khả năng dự báo các tình huống và có ý thức tích cực lựa chọn các cách thức giải quyết thích hợp. Quan trọng hơn, đó là năng lực lãnh đạo và quản lý của họ đã được đo lường, kiểm nghiệm từ thực tiễn phát triển đất nước. Những thành tựu về kinh tế - văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại... là những minh chứng sống động về sự nhất trí cao của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Đồng thời đó cũng là những ghi nhận mạnh mẽ về năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã biết vươn lên chứng tỏ khả năng có thể gánh vác và hoàn thành những nhiệm vụ chính trị mới.

Qua gần 25 năm đổi mới, trình độ nhận thức, lý luận của Đảng ta đã được nâng lên một cách rõ rệt. Chúng ta không chỉ biết xử lý các vấn đề trong nước mà còn tham gia xử lý các vấn đề toàn cầu. Có thể nói một bộ phận cán bộ, đảng viên ta đã được “trí thức hóa”, còn tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên đều có trình độ phổ thông trung học. So với trước đây, mặt bằng học vấn của Đảng đã phát triển ở một trình độ khá cao. Quá trình dân chủ trong sinh hoạt của các tổ chức Đảng từ trung ương đến cơ sở được nâng cao. Nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa trong Đảng, đề cao sự gương mẫu của đảng viên, của cán bộ, nhất là thủ trưởng và những người có chức có quyền được coi trọng và trở thành một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra, công tác tuyên giáo của Đảng đều chú trọng đến vấn đề xây dựng văn hóa của cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng. Điều này có ý nghĩa nhất định để xây dựng tốt môi trường văn hóa trong Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, nhất là trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” vừa qua.

b, Hn chế

Tuy vậy, đời sống văn hóa trong Đảng vẫn đang tồn tại nhiều vấn đề phức tạp, bức xúc. Các văn kiện và nghị quyết của Trung ương trong các khóa gần đây đều nói lên tình trạng đó. Nghị quyết T.Ư 6 (lần 2) khóa VIII viết: “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn”, “thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống… những biểu hiện tiêu cực này đang có chiều hướng phát triển, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ”. Văn kiện Đại hội IX viết:

“chưa ngăn chặn và đẩy lùi được suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn”. Kết luận của Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành T.Ư khóa IX viết: “Những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên tiếp tục được cảnh tỉnh, răn đe; một số nơi các vụ việc tiêu cực có giảm bớt… Tuy nhiên, nhìn chung cho đến nay cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng chưa tạo được những chuyển biến cơ bản, nhất là chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ tham

nhũng lãng phí. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực đã lan rộng sang nhiều lãnh vực kể cả lãnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ pháp luật…; tình trạng sách nhiễu người dân vẫn diễn ra phổ biến làm cho nhân dân bất bình”.

Nhìn một cách tổng quát, có thể nói một nguy cơ tiềm ẩn đang đe dọa chúng ta là sự tha hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt những người có chức có quyền. Trước đây, khi Đảng còn hoạt động bí mật, sự tồn tại và hoạt động của Đảng gắn với dân. Dân nuôi nấng, bảo vệ Đảng và cán bộ đảng viên của Đảng. Nhưng sau cách mạng, Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Từ đó đã bắt đầu xuất hiện mầm mống của sự tha hóa. Ngay sau khi chính quyền cách mạng non trẻ mới ra đời, Bác Hồ đã phê phán tệ quan liêu, thói thích làm “quan cách mạng”

trong một số cán bộ lúc đó. Nhưng lúc bấy giờ trong hoàn cảnh đất nước còn nghèo, cuộc chiến tranh vẫn diễn ra, kỷ luật Đảng khá chặt chẽ, công tác giáo dục tư tưởng được tiến hành thường xuyên, cho nên nguy cơ tha hóa trong một bộ phận nhỏ cán bộ có chức có quyền chưa diễn ra.

Ngày nay tình hình đã khác. Lòng tham của con người càng được kinh tế thị trường kích thích. Sự cấu kết giữa quyền và tiền có điều kiện xuất hiện. Đó là mầm mống của sự tha hóa. Một số người xấu, kém tu dưỡng đã rơi vào con đường đam mê quyền lực. Họ dùng mọi thủ đoạn, kể cả thủ đoạn xấu xa nhất để có quyền lực trong tay, và khi có quyền lực rồi thì dùng quyền lực đó để thỏa mãn mọi tham vọng. Đam mê quyền lực là một sự tự sát về chính trị, vì nó hủy hoại toàn bộ nhân cách và phẩm giá của con người.

Sự suy thoái tư tưởng đạo đức trong một bộ phận cán bộ đảng viên là biểu hiện tập trung nhất cho sự suy yếu về văn hóa trong Đảng ta hiện nay. Nhưng vấn đề không dừng lại đó. Văn hóa không chỉ thể hiện trong nhân cách, đạo đức con người, văn hóa còn thấm sâu vào các tổ chức và hoạt động cụ thể của Đảng. Về phương diện này, văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành trung ương khóa IX đã chỉ ra khá rõ những yếu kém và tồn tại cần khắc phục.

Đánh giá và quản lý cán bộ là khâu yếu nhất nhưng chậm được khắc phục.

+) Chưa có sự thống nhất về nhận thức đối với những điểm chủ yếu về tiêu chuẩn trong đánh giá cán bộ, chưa thực sự lấy kết quả hoàn thành

nhiệm vụ làm thước đo chủ yếu về phẩm chất và năng lực cán bộ, cách đánh giá cán bộ còn chung chung, thiếu cụ thể, hình thức, máy móc, thiếu căn cứ khách quan.

+) Không ít tổ chức và người lãnh đạo nắm không chắc, đánh giá không trúng, thiếu khách quan, thành kiến, hẹp hòi, định kiến với những người trung thực, có năng lực, có tinh thần đấu tranh thẳng thắn. Vẫn còn tình trạng phe cánh, bè phái, cục bộ, vụ lợi, cố tình đánh giá sai lệch, trù dập những cán bộ trung thực, mẫn cán, sử dụng cán bộ phẩm chất và năng lực kém do thân quen, nể nang, chạy chọt.

+) Chưa làm tốt quy trình dân chủ hóa, công khai hóa và minh bạch hóa trong công tác cán bộ. Sinh hoạt phê bình và tự phê bình kém, còn để tình trạng lợi dụng dân chủ, tung dư luận xuyên tạc, gây nhiễu thông tin, làm lẫn lộn trắng đen.

+) Công tác quản lý cán bộ chưa tốt, chế độ trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ chưa được quy định rõ, hoặc chưa hợp lý…1

Những biểu hiện nêu trên làm suy giảm tính tiên phong gương mẫu của người cán bộ, đảng viên, làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng. Điều đó là xa lạ với bản chất của Đảng ta. Đảng là “trí tuệ, danh dự và lương tâm”, “Đảng là đạo đức, văn minh”.

2.10.1.2. Những bài học kinh nghiệm

a, Hoạt động chính trị của Đảng ta nằm trong một cơ chế mới: chính quyền là của dân, do dân và vì dân, các nhà hoạt động chính trị xã hội là đại diện của nhân dân, là công bộc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân.

Mục tiêu lâu dài của Đảng ta là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một sứ mạng cực kỳ to lớn, khó khăn. Sứ mạng đó đòi hỏi Đảng các cán bộ, đảng viên của Đảng phải có trình độ cao về năng lực và phẩm chất. Lê nin đã từng nói: “Đảng là trí tuệ, danh dự và lương tâm” của dân tộc.

1 Xem : Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành T.Ư khóa IX.

b, Trong thực tế lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong mọi thời kỳ, Đảng ta luôn vươn tới tầm cao của dân tộc và thời đại. Đảng ta tự hào về nhiều anh hùng liệt sĩ đã cống hiến cả đời mình cho dân tộc. Chúng ta cũng tự hào hơn về Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhà chính trị lớn và nhà văn hóa lớn.

Tầm cao văn hóa Hồ Chí Minh tác động trực tiếp đến toàn bộ hoạt động chính trị của Người, tạo nên ở Người một nhà chính trị kiểu mới.

Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và bắt nguồn từ ba nguồn gốc:

• Chủ nghĩa Mác - Lê nin

• Những giá trị tư tưởng truyền thống cao đẹp của dân tộc

• Những tinh hoa văn hóa của cách mạng tư sản của các nước phương Tây thời cận đại, của triết học phương Đông và của một số nhà cách mạng dân chủ trên thế giới.

Chính nhờ những giá trị đó, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách có hiệu quả các mối quan hệ: phương Đông và phương Tây, quốc gia và quốc tế, hành động và thơ ca, truyền thống và cách mạng, lý trí và tình cảm.

Đồng thời, nhà chính trị Hồ Chí Minh đã tạo lập được mối quan hệ ruột thịt, thân tình với quảng đại quần chúng, đặc biệt đối với những người bị áp bức, bóc lột. Tư tưởng chỉ đạo của Người là: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Phong cách chính trị Hồ Chí Minh cũng được hình thành từ đó. Điều nổi bật nhất ở Người là sự thống nhất cao độ giữa lời nói và việc làm.

Làm chính trị không thể bỏ qua mưu lược. Ở Hồ Chí Minh, khi phải đối mặt với kẻ thù nham hiểm, người cũng phải dùng mưu kế khôn khéo.

Nhưng, nhìn chung đối với mọi người, kể cả đối với đồng chí hay chưa phải là đồng chí, Hồ Chí Minh rất tin yêu con người. Lòng tin yêu đó đã trở thành sức mạnh cảm hoá mãnh liệt, lôi kéo con người về với chính nghĩa.

c, Sự nghiệp đổi mới đất nước đang diễn ra trong một bối cảnh cực kỳ phức tạp, vừa có thời cơ, vừa có nguy cơ. Biết lợi dụng thời cơ cũng như biết vượt qua thách thức, đó là bài toán không đơn giản. Ở đây đòi hỏi giới lãnh đạo phải có tầm nhìn xa, vừa nắm bắt nhanh những thành tựu đã có và đang có, vừa phải dự báo được những gì sẽ diễn ra không chỉ trên đất nước mình, mà còn trên phạm vi thế giới. Hơn bao giờ hết, số phận

của các quốc gia dân tộc đang đoàn kết với nhau, tác động tới nhau. Bỏ qua một thời cơ thuận lợi cũng như không dự báo được những thách thức sẽ diễn ra thì công cuộc đổi mới sẽ gặp nhiều khó khăn.

Những năm tháng chúng ta đang sống cũng là thời kỳ mà vấn đề đạo đức, lương tâm trở thành sự quan tâm chung của mọi dân tộc. Đạo đức, lương tâm đang bị đe dọa từ nhiều phía, dẫn tới sự lo âu của mọi người, mọi gia đình. Những năm gần đây, thế giới đang nằm trong một tình thế chạy đua về phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế, hậu quả của sự tăng trưởng đó đang ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội, tạo nên những bất công mới, sự nghèo nàn và xuống cấp về đạo đức, tinh thần, nuôi trồng sinh thái bị ô nhiễm nặng nề… Đất nước ta cũng đang nằm trong tình cảnh chung đó.

Cuộc chiến tranh giải phóng đất nước kéo dài mấy chục năm trời đã rèn đúc cho dân tộc ta và cho Đảng ta những phẩm chất tuyệt vời, nhưng cũng để lại những di hại nặng nề. Hơn nữa, do hậu quả của chiến tranh, và do ảnh hưởng của tư duy cũ, chúng ta đã lạc hậu khá xa so với thế giới trên nhiều lãnh vực quan trọng. Bệnh kiêu ngạo cộng sản vẫn còn ngự trị trong một số các cán bộ đảng viên. Căn bệnh đó cũng là nguyên nhân tạo nên sự suy yếu trong chí tiến thủ về các mặt trí tuệ, đạo đức, phẩm chất, năng lực ... của người cán bộ. Căn bệnh đó làm cho người cán bộ ngày càng xa dần lĩnh vực văn hóa, coi việc học tập là nghĩa vụ của người khác chứ không phải của bản thân mình. Căn bệnh đó cũng tác động không ít đến chính sách cán bộ, của Đảng trong những năm qua (bao gồm chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ). Hậu quả là sự bất cập của nhiều cán bộ các cấp ngành trong việc hoạch định hay thực thi các chính sách kinh tế xã hội. Sự hụt hẫng về tầm văn hóa đó đã một thời gian dài tách rời các vấn đề kinh tế với các vấn đề xã hội, coi nhẹ các hoạt động văn hoá, khoa học, giáo dục, văn học nghệ thuật ... Đó cũng là nguyên nhân tạo nên sự biến dạng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta (cũng như ở một số nước anh em).

Hiện nay chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới. Thực chất đó cũng là một cuộc vận động văn hóa, đánh dấu sự phát triển về văn hoá của Đảng. Tuy vậy, trước mắt chúng ta còn ngổn ngang bao vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội… Sự yếu kém trong tri thức của chúng ta về các vấn đề đó đang tạo nên những bước đi mò mẫm, nhiều khi chông chênh. Thêm

Một phần của tài liệu đề tài phát triển văn hoá việt nam giai đoạn 2011-2020 (Trang 163 - 177)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(398 trang)