TÌNH YÊU L ỨA ĐÔI
2.5. TH Ế GIỚI TÌNH CẢM CỦA CÁC CÔ GÁI CHÀNG TRAI
2.5.3. Tính chất lành mạnh và tiến bộ của tình yêu trong ca đao
Trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam, những bài ca dao giàu hình ảnh thẩm mỹ nhất, giàu giá trị nhân văn nhất là ca dao về tình yêu nam nữ. Sự phong phú trong cách biểu hiện, diễn đạt vẻ đẹp muôn màu muôn sắc của tình yêu lứa đôi đã được đề cập tới ở trên. Trong phần này chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm nổi bật trong quan niệm lành mạnh, tiến bộ về tình yêu được người lao động gửi gắm trong ca dao dân ca trữ tình.
Hôn nhân truyền thống xưa kia không coi trọng ước muốn được tự do chọn lựa hạnh phúc riêng tư của đôi trai gái. Hôn nhân trước hết phải phụ thuộc vào ý muốn của gia tộc. Gia trưởng sẽ chọn lựa một dòng họ để xứng đáng "môn đăng hộ đối", quy định này không chấp nhận sự chênh lệch sang-hèn, giàu-nghèo.
Nhưng có thể thấy các chàng trai cô gái lao động xưa kia lại có quan niệm khác, đó là quan niệm về một tình yêu không tính toán, tình yêu tự nhiên đến theo cảm xúc, rung động trái tim, tình yêu trong sự tự đo lựa chọn. Và đó là sự "xứng đôi vừa lứa"
tuyệt vời nhất, bền vững nhất
-Em như bức tượng mới tô Anh như ngòi bút họa đồ trong tranh.
-Em như tấm vóc đại đồng
Anh như chi kim tuyến thêu rồng nên chăng.
-Em như Tố Nữ trong tranh Anh như ngòi bứt chấm cành hoa mai.
-Anh như cây gỗ xoan đào Em như câu đối dán vào nên chăng.
Cả chàng trai và cô gái đều ví von, so sánh mình trong sự hài hòa, cân xứng và họ mãn nguyện với lời ước hẹn trọn đời.
Tình yêu được miêu tả trong ca dao trữ tình bao giờ cũng gắn liền với hôn nhân, hầu như không có những lời tỏ tình ưỡm ờ, được chăng hay chớ, hoặc "thả mồi bắt bóng". Đứng trước thực tế của bao nhiêu trở ngại, ràng buộc khắt khe, đôi lứa yêu nhau khi nói lời trao duyên, họ đều mong ước một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Có thể thấy hình ảnh "trầu càu", "chồng vợ" sóng đôi trong hệ thống những bài hát giao duyên. Ví dụ bài ca "Tát nước đầu đình" chàng trai mượn cớ bỏ quên cái áo, để rồi ướm hỏi cô gái "Em được thì cho anh xin", và hình ảnh một đám cưới được chàng trai vẽ ra để "giúp em" với tất cả tình cảm thiết tha, chân thành, bởi lẽ "vợ anh chưa có" và chiếc áo "sứt chi đường tà" của anh đang chờ đợi em "về khâu cho cùng"
Nếu như bài ca "Tát nước đầu đình" dùng lối nói hình tượng tinh tế để thổ lộ ước mơ tình yêu gắn liền với hôn nhân thì cũng có nhiều câu ca ngắn gọn, với thái độ lựa chọn dứt khoát
-Thương thì kết tóc giao tay
Không thương én liệng, nhàn bay mược nhàn.
-Thương thì mở nắp bưng cơi
Không thương đặt xuống cho người khác bưng.
Hoặc là:
-Ước khi nào hợp một nhà Chồng cày vợ cấy mẹ già đưa cơm.
-Ước sao cho hợp một nhà
Chồng loan vợ phượng đôi ta chung tình.
Quan niệm về một tình yêu lành mạnh trong sáng được thể hiện một cách phong phú, sinh động trong ca dao. Trở lại hệ thống bài ca "Mười thương", ta thấy thật tinh tế khi có một điều 'thương" quan trọng nhất, đó là "chín thương em ở một mình",
"chín thương em chửa có ai", hoặc ở một bài ca thuộc hệ thống khác "em xinh em đứng một mình cũng xinh" phải chăng điều khiến cô gái "sáng giá" nhất chính là ở sự
trinh nguyên, trong trắng khi đến với tình yêu. Và ta cũng hiểu rất rõ rằng quan niệm đó của người xưa thấm nhuần ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Cũng là ý tưởng đó nhưng bài ca dao sau lại là tiếng nói của người con gái:
Sáng ngày tôi đi hái dâu Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu ?
Thưa rằng tôi đi hái dâu, Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Có một nhà nghiên cứu cho rằng đây là một bài huấn ca của một nhà nho giáo huấn con gái. Thực tế bài ca này thấm nhuần tính dân gian sâu sắc. Câu chuyện có đầy đủ tình tiết của cuộc đời, hai chàng trai đều ân cần, đều "mở túi têm trầu" mời cô gái.
Vậy phải xử sự sao đây ? Miếng trầu từ ngàn xưa đã là biểu tượng cho "sứ giả " tình yêu và sự gắn kết lứa đôi.
Từ ngày ăn phải miếng trầu Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu ... Làm cho quên mẹ, quên cha, quên cửa quên nhà.
Cô gái trong câu chuyện đã vượt qua tình thế khó xử ấy một cách khéo léo, nhẹ nhàng. Bởi tình yêu và giao kết lứa đôi đâu thể đơn phương mà có được. Bài ca thật thâm thúy khi ý nghĩa của nó vượt lên cả thời gian để tồn tại đến ngày nay.
Thử tìm hiểu thêm ý nghĩa của bài ca dao quen thuộc:
-Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc Em đã có chồng anh tiếc lắm thay.
-Ba đồng một mớ trầu cay Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thuở nào ra.
Đã có nhiều lời bàn luận sâu sắc về bài ca này, nhiều ý kiến cho rằng âm điệu chủ đạo của bài ca là tiếng hát tiếc nuối xót xa, cảm hoài về một cảnh ngộ trớ tiêu, éo le, ngoài ước nguyện thường gặp ở ngoài đời là yêu nhau mà không lấy được nhau, bây giờ có dịp gặp lại, cả chàng trai và cô gái đều xốt xa cho thân phận bất hạnh của mình. Đó là một cách hiểu hợp lý, song tiếng nói của ca dao dân ca trữ tình có đặc điểm đa phương suy nghĩ, đa chiều cảm xúc nên ta cũng có thể tìm thêm những ý nghĩa khác cho bài ca. Cô gái trong bài ca cũng đang rơi vào tình huống thật khổ xử, gặp lại "người thuở ấy" và họ lại đang bày tỏ nỗi niềm nuối tiếc không nguôi, mọi việc với anh đã trở nên lỡ làng bởi em đã có chồng "như chim vào lồng như cá cạn câu".
Phải chăng đó là một thực tế cả "anh" và em đều phải tinh táo chấp nhận, bởi ngày xưa anh đã vô tình " Ba đồng một mớ trầu cay - Sao anh chẳng hỏi những ngày còn khổng !". Điều đáng cảm phục ở cô gái đó là sự tinh táo để gỡ cho mình và cho "cố nhân" ra khỏi cảnh "tiến thoái lưỡng nan" để mãi mãi giữ được những kỹ niệm đẹp của ngày xưa, và để sống cho trọn nghĩa trọn đạo làm vợ. Đó phải chăng cũng là một vẻ đẹp cao quý trong quan niệm hôn nhân của người Việt Nam "tình" đi đôi với
"nghĩa" và chính cái "nghĩa" đã giúp cho người ta sống mà không hổ thẹn với phẩm giá của mình.
Đặc biệt khi cất lên tiếng hát về tình yêu ca dao dân ca trữ tình còn khẳng định sâu sắc quan điểm đạo đức về lòng chung thủy của người lao động trong đời sống tình cảm:
Khi lên rừng :
Rủ nhau lên núi đốt than
Anh đi Tam Điệp em mang nón trình Củi than nhem nhuốc với tình Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên ...
Lúc xuống biển :
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình Ngược xuôi, xuôi ngược có mình với ta
Phòng khi gió táp mưa sa Mình vào giữ lái, ta ra chịu sào.
- Sông sâu sóng cả em ơi
Chờ cho sóng lặng buồm xuôi ta xuôi cùng Trót đa mang vào kiếp bồng bềnh Xuống ghềnh lên thác một lòng ta thương nhau.
Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào :
Muối ba năm muối hãy còn mặn Gừng cay chín tháng gừng hãy còn cay Đạo nghĩa cang thường chớ đổi đừng thay
Dẫu có làm nên danh vọng, rủi có ăn mày ta cũng theo nhau... Trên thực tế người lao động trong xã hội xưa hạnh phúc không được bao nhiêu mà buồn tủi, bất hạnh thì nhiều. Ca dao trữ tình đã thực sự là nơi họ gửi gắm tâm sự và để cho ước mơ, khát vọng tình yêu, hạnh phúc được bay bổng. Tâm hồn trong sáng, dạt dào tình yêu thương con người - quê hương của chủ thể trữ tình trong ca dao về tình yêu lứa đôi, đã làm nên những tuyệt tác có sức sống bền vững.
Các nhân vật trữ tình trong tình yêu lứa đôi là "chàng trai" "cô gái", mỗi nhân vật đều có nỗi niềm riêng, đặc biệt nhân vật người con gái được xây dựng một cách
phong phú, điều đó cũng xuất phát từ đặc điểm nhân vật trữ tình của ca dao chính là người phụ nữ.
Việc nghiên cứu mảng ca dao tình yêu đôi lứa không chi nhằm làm rõ nét đặc sắc tinh tế, hàm xúc trong nghệ thuật biểu hiện của tiếng hát tâm tình, đối đáp giao duyên của ca dao mà cần phải làm rõ hơn nét đẹp trong quan niệm tình yêu lành mạnh, tiến bộ, thái độ chủ động bộc lộ cảm xúc yêu thương và tiếng nói phản kháng xã hội của nhân vật trữ tình - người con gái. Chính thực tế này đã cho thấy từ ngày xưa ông cha ta đã đâu ứanh cho một tình yêu tự do, cho nhu cầu giải phóng cá nhân, và cao hơn tình yêu đó là quyền sống, là khát vọng được sống thật với lòng mình. Đó chính là ý nghĩa nhân văn cao cả của ca đao về tình yêu.