Hình ảnh con cò - biểu tượng cho người nông dân trong ca dao

Một phần của tài liệu đặc điểm nhân vật trữ tình trong ca dao cổ truyền việt nam (Trang 101 - 107)

CA V Ề CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI

4.2. TH Ế GIỚI TÌNH CẢM CỦA NHÂN VẬT NGƯỜI NÔNG DÂN

4.2.4. Hình ảnh con cò - biểu tượng cho người nông dân trong ca dao

Người nông dân Việt Nam khi làm việc đồng áng, họ thường thấy những con cò quanh quẩn thân mật bên họ. Sự liên tưởng về thân phận xuất hiện. Họ thấy số phận sương nắng trên cánh đồng của mình thật giống số phận con cò cũng long đong kiếm ăn vất vả như mình. Hình ảnh con cò được thể hiện hoàn toàn từ góc nhìn của tâm trạng trữ tình hoặc nói rõ hơn là từ góc nhìn "trữ tình hóa", mang đậm dấu vết tư duy

"duy tình" "trọng tình" của người nông dân. Có thể thấy rằng trong ca dao trữ tình Việt Nam có rất nhiều bài ca lấy cảm hứng từ hình ảnh con cò: "con cò lặn lội...", "con cò mà đi ăn đêm", "con cò bay lả bay la", "con cò là con cò quăm". Nếu hình ảnh con trâu vất vả cấy cầy cùng người nông dân, được người nông dân gọi một cách thân mật là người "bạn điền", thì con cò lại mang ý nghĩa khác. Con cò trắng "gợi hứng" (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) cho người nông dân những tình cảm bay bổng, thanh thoát, tâm hồn nhẹ nhàng muốn giao hoa lời ca tiếng hát trong niềm vui lao động:

Một đàn cò trắng bay tung Bên nam bên nữ ta cùng hát lên.

Hay là:

Một đàn cò trắng bay quanh Cho loan nhớ phượng, cho mình nhớ ta.

Hình ảnh con cò tương đồng thật sự và có giá trị biểu cảm phong phú, sâu sắc cho người nông dân. Trong mưa bão, sấm chớp, gió giật đùng đùng, mọi con vật, sự vật đều “biến dạng”, chỉ riêng con cò, vẫn là nó, vẫn phải mải miết kiếm ăn:

Trời mưa Quả dưa vẹo vọ

Con ốc nằm co

Con tôm đánh đáo Con cò kiếm ăn...

Bài ca dao vẽ ra một bức tranh nhỏ về cảnh vật làng quế trong mưa, nhưng lại bao hàm một ý nghĩa sâu sắc. Chỉ bằng vài câu hát giản dị, bài ca dao đã khiến cho ta vừa thương xót nhưng cũng vừa khâm phục sự lao động cần cù, chăm chỉ, nhẫn nại của người nông dân trong mọi hoàn cảnh.

Nhiều bài ca về con cò thường có ý nghĩa ngụ ngôn. Mỗi một bài ca như một câu chuyện kể có vụ việc, có diễn biến, nhân vật, có lời người kể chuyện, lời độc thoại nội tâm nhân vật... nói tóm lại là bài ca có "tính truyện" hẳn hoi. Thí dụ như bài ca sau đây:

Con cò mà đì ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Ông ơi, ông vớt tôi nao Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng

Có xáo thì xáo nước trong Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Đây là một trong những bài ca dao tiêu biểu nhất cho hình ảnh con cò, đồng nghĩa với thân phận người lao động trong xã hội phong kiến xưa kia. Bài ca mượn lời con cò đi kiếm ăn bị nạn, xin người ta cứu vớt để qua đó nói về cảnh ngộ người nông dân và phẩm chất của họ. Có thể nói suốt cuộc đời chìm đắm trong khổ cực, đau buồn, tủi nhục, người lao động khi giãi bày cảm nghĩ về mình họ thường than thân, trách phận. Vì vậy tiếng hát than thân với nhạc điệu bài ca thường mang âm hưởng buồn xuyên suốt hệ thống ca dao trữ tình, chi cần ta chạm nhẹ vào một đường tơ nào đó trên nền ca dao\yề thân phận cũng sẽ thấy âm điệu buồn là vị trí chủ đạo. Trong bài ca trên, ta thấy cảnh ngộ một con cò "đi ăn đêm". Hình ảnh này trái với lẽ thường, cò không phải đi ăn đêm như vạc. Chắc hẳn đây phải là một cảnh ngộ rất khốn cùng, số phận dồn ép cò mẹ phải lặn lội trong đêm tối hãi hùng kiếm mồi cho cò con và trong cảnh ngộ ấy con cò gặp nạn. Cuộc sống của người nông dân sau lũy tre làng xưa cũng

thế, cũng lam lũ, đầu tắt mặt tối quanh năm, "cành cứng" "cành mềm" khổng sao tự chọn lựa được và họ gặp nạn ngay vào lúc bị đẩy vào cái thế cùng ấy. Trước cái chết, con cò chi một lòng nghĩ tới con, chi xin được "chết trong" để cò con đỡ đau lòng.

Tiếng kêu cứu đau thương vút lên như một lời trăn trối muốn được giữ lấy danh dự, được "chết trong còn hơn sống đục" không chi cho chính mình mà còn cho con cháu mai sau. Một ví dụ khác:

Nước non lận đận một mình Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay

Ai làm cho bể kia đầy Cho ao kia cạn cho gầy cò con.

Nếu ở bài ca dao trên là "con cò" thì ở bài ca dao này là "thân cò". Cùng là một nghĩa ẩn dụ về người nông dân nghèo khó nhưng nghệ thuật miêu tả của bài ca này đã làm nổi bật lên một hiện thực lớn đó là một thân phận, một số kiếp luôn phải chịu sự đầy ải của cuộc đời. Hình ảnh con cò bé nhỏ, mảnh mai, đơn độc giữa sự xoay vần của thời cuộc được nhấn mạnh hơn trong cái vẻ yếu ớt, gầy guộc của "thân cò". Hàng loạt các biểu tượng nghệ thuật đối lập nhau như: " nước non" rộng lớn, hiểm trở với "thân cò" "một mình" bé nhỏ yếu ớt "lận đận" "lên thác xuống ghềnh", hiểm nguy đến tột cùng và tai hoa thật khôn lường. Trong sự triền miên khổ ải ấy, câu hỏi vô vọng càng làm tăng thêm sự khốn cùng của số phận:

Ai làm cho bể kia đầy Cho ao kia cạn cho gầy cò con.

"Ai" là một đại từ phiếm chi nhưng đã hàm ý về một đối tượng đó là giai cấp thống trị. Các chi tiết nghệ thuật được chọn lọc chính xác đã khắc hoa khá đầy đủ, chân thực và xúc động về cuộc đời người nông dân trong xã hội xưa.

Có thể nói trong xã hội phong kiến thân phận người nông dân nghèo khổ là ở dưới đáy, địa chủ, cường hào ở thôn làng tha hồ hành hạ, bóc lột. Hãy nghe những con cò, con vạc, con nông than thở vì bị áp bức:

- Cái cò, cái vạc, cái nông Ba con cùng béo, vặt lông con nào

Vặt lông cái vạc cho tao

Hành răm nước mắm bỏ vào cho thơm.

- Cái cờ, cái vạc, cái nông Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò

Không không tôi đứng trên bờ Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tôi

Chẳng tin thì ông đi đôi Mẹ con nhà nó còn ngồi ở kia.

Mặc khác, người nông dân cũng thấy chính mình là "nhân vô thập toàn". Có những bài ca trong đó hình ảnh con cò không nhằm ca ngợi hoặc than thân trách phận mà nhằm phê phán những thói hư tật xấu của con người:

Con cò lặn lội bờ ao

Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?

Chú tôi hay tửu hay tăm Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa

Ngày thì ước những ngày mưa Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.

Đây cũng là một câu chuyện có lời mở đầu quen thuộc "con cò lặn lội..." nhưng chủ thể trữ tình thấp thoáng phía sau hình ảnh con cò hoàn toàn tương phản với những gì được miêu tả ở dưới về "chú tôi". Biện pháp đối lập giữa một bên là "lặn lội" với một bên là "hay tửu, hay tăm" "hay nằm ngủ trưa" đã đề cao vẻ đẹp về phẩm chất của người nông dân và cũng là lời mách bảo tinh tế cho "cô yếm đào" xinh xắn trong câu chuyện ấy có một sự lựa chọn đúng đắn.

Có những bài ca dao phê phán thói xấu khác của người nông dân:

Cái cò là cái cò quăm Mày hay đánh vợ mày nằm với ai?

Có đánh thì đánh sớm mai Chớ đánh chập tối chả ai cho nằm.

Bài ca dao vừa phê phán lại vừa đùa cợt cảm thông. Sự miêu tả phong phú như vậy khiến hình ảnh con cò trong ca dao trở nên sinh động hơn ở nhiều góc nhìn khác nhau. Điều đó cũng có nghĩa là hình ảnh người nông dân được ca dao diễn tả trong nhiều mối quan hệ xã hội càng trở nên sinh động, phong phú, sâu sắc.

Nhân vật người nông dân Việt Nam, chủ thể nền văn hóa nông nghiệp Việt Nam, trên thực tế đã trở thành nhân vật trữ tình trung tâm của ca dao trữ tình Việt Nam.

Nghiên cứu hình ảnh người nông dân ương các mối quan hệ xã hội, ta nhận thấy đặc điểm những tình cảm lớn của nhân vật trữ tình - người nông dân, đó là: tình yêu thiên nhiên thiết tha, trìu mến, lòng gắn bó với thiên nhiên như với một người bạn tâm tình, một nhân vật trữ tình không thể thiếu được. Hài hòa trong tình cảm với thiên nhiên là tình yêu, niềm tự hào với công việc lao động sản xuất, với làng xóm, quê hương. Ta có thể gọi đó là vẻ đẹp tinh túy trong đời sống tình cảm của người nông dân, tình quê, tình làng gắn bó giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa gia đình với quốc gia.

Hình ảnh người nông dân trong ca dao trữ tình có người nông dân làm ruộng, làm thợ, làm nghề sông nước. Tùy địa phương, tùy loại công việc mà hình ảnh nào nổi bật lên, nhưng trong ca dao hình ảnh người nông dân làm nghề nông là nổi bật hơn cả, cũng có khi ba nhân vật này là "tam vị nhất thể", sự phân biệt chi là ở sắc thái nghề nghiệp, hình ảnh liên quan tới việc diễn tả tâm tình. Ví dụ: hình ảnh "con cò" liên quan tới nhân vật trữ tình là người nông dân làm ruộng, bởi vì trong các loài chim kiếm ăn ở đồng ruộng, chi có con cò thường gần người nông dân hơn cả. Con cò cần mẫn kiếm ăn không quản nắng mưa, bão bùng, một mình lam lũ trên cánh đồng... con cò dễ gợi sự liên tưởng nhất về thân phận vất vả trong công việc đồng áng của người nông dân. Nhưng cho dù đó là công việc gì, suốt đời quanh quẩn trong lũy tre làng

hay phải cất bước đi xa ... thì nội dung tâm tình của người nông dân trong ca dao không mấy khác nhau, họ có cùng chung nỗi khổ đói nghèo, bị áp bức, cùng chung thái độ phản kháng giai cấp thống trị. Triết lý sống và tinh thần lạc quan của người nông dân Việt Nam dù ở bất kỳ cảnh ngộ nào thì cái gốc nông dân vẫn được biểu hiện rõ nét.

Từ việc tìm hiểu những bài ca về nhân vật trữ tình - người nông dân trong các mối quan hệ xã hội, ta có cái nhìn đầy đủ và hệ thống hơn về đời sống tình cảm của người nông dân cũng như chứng minh được một cách sinh động hơn về giá trị hiện thực - giá trị thẩm mỹ và giá trị nhân văn của ca dao dân ca Việt Nam.

Một phần của tài liệu đặc điểm nhân vật trữ tình trong ca dao cổ truyền việt nam (Trang 101 - 107)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(156 trang)